TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN THÁNG 4-5/2018

Chủ nhật - 18/03/2018 21:08
CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 43 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1945 – 30/4/2018)
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Sửa đổi lối làm việc”
với Chỉ thị số 05 CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị
 
    Cách đây 70 năm, vào tháng 10/1947, sau khi giành được chính quyền 02 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy Bí danh là XYZ viết một tác phẩm đặc biệt quan trọng để huấn luyện, giáo dục, rèn luyện phương pháp, đạo đức và phong cách làm việc cho cán bộ đảng viên của Đảng ta.
    Người viết: “Hiện nay phong trào cách mạng rất cao. Nhưng thử hỏi cán bộ và hội viên ta đã mấy người biết rõ lý luận và biết áp dụng vào chính trị - quân sự, kinh tế và văn hóa? Đã mấy người hiểu “biện chứng” là gì? Vì kém lý luận, cho nên khi gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại”.
    Vì vậy, nội dung chủ yếu của tác phẩm này là Hồ Chí Minh đã quán triệt một cách nhuần nhuyễn phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời Người dạy chúng ta cách suy nghĩ và làm việc đúng đắn để hoàn thành tốt công tác cách mạng và trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Bác đã khái quát nêu ra hai phương pháp cơ bản sau:
    Một là, phải đứng vững trên quan điểm duy vật để xem xét giải quyết mọi vấn đề của cách mạng. Đứng vững trên lập trường duy vật để kiên quyết chống lại bệnh chủ quan - một căn bệnh nguy hiểm nhất gây tác hại to lớn cho cách mạng. Người phân tích: “Nguyên nhân của bệnh chủ quan” là “kém lý luận hoặc khinh lý luận hoặc lý luận suông”. Hồ Chí Minh nói: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính. Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”… “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm vào lý luận. Vì vậy chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành”.
    Hai là, phải nắm vững phương pháp biện chứng để xem xét và giải quyết mọi vấn đề của cách mạng Việt Nam. Nắm vững phép biện chứng là để kiên quyết chống lại căn bệnh hẹp hòi. Hồ Chí Minh viết: “Bệnh này là rất nguy hiểm mà nhiều cán bộ và đảng viên còn mắc phải. Trong thì bệnh này ngăn trở Đảng thống nhất và đoàn kết. Ngoài thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân. Nhiều thứ bệnh như chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa… đều do bệnh hẹp hòi mà ra”, dẫn đến giải quyết công việc một cách phiến diện…
    Còn về tư cách và đạo đức cách mạng, tư cách của Đảng chân chính cách mạng thì Hồ Chí Minh viết: “Đảng không phải là một tổ chức làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phòng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng và lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau…Nếu không vậy thì không biết nắm vững các cách thức tranh đấu và các cách thức tổ chức, không biết liên hợp lợi ích ngày thường và lợi lâu dài của dân chúng”.
    Về phận sự của đảng viên và cán bộ, Người yêu cầu: Thứ nhất, trọng lợi ích của Đảng hơn hết. Hồ Chí Minh viết “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức Nhân dân, lãnh đạo Nhân dân để giải phóng Nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hóa, chính trị của Nhân dân. Vì toàn dân được giải phóng, tức là Đảng được giải phóng”; thứ hai là, đạo đức cách mạng. Người viết “Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt như sau ngày càng thêm. Nói tóm lại, tính tốt ấy gồm có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”; thứ ba, phải giữ kỷ luật. Hồ Chí Minh viết “lợi của dân tộc, gồm có lợi ích của Đảng. Lợi ích của Đảng, gồm có lợi ích của đảng viên. Vì vậy, sự phát triển và thành công của Đảng, một mặt tức là thành công của dân tộc, một mặt tức là thành công của đảng viên. Vì vậy, chỉ có khi Đảng thành công và thắng lợi, thì đảng viên mới có thể thành công và thắng lợi. Chính vì vậy mà đảng viên cần phải hy sinh lợi ích của mình cho lợi ích chung của Đảng. Không ai bắt buộc ai vào Đảng làm chiến sỹ xung phong. Đó là do sự “tự giác”, lòng hăng hái của mỗi người mà tình nguyện làm đảng viên, làm chiến sỹ xung phong… Đồng thời, bất kỳ ở hoàn cảnh nào, đảng viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức phấn đấu, ra sức làm việc, cố gắng học tập để nâng cao trình độ văn hóa, tri thức và chính trị của mình.
    Vì vậy, muốn sửa đổi lối làm việc cho cán bộ đảng viên thì phải huấn luyện cán bộ. Người viết: cán bộ là gốc của mọi công việc. Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Việc huấn luyện cán bộ cần tập trung vào các nội dung: huấn luyện nghề nghiệp, huấn luyện chính trị, huấn luyện văn hóa, huấn luyện lý luận… và chính Người là hiện thân về sử dụng vũ khí sắc bén của phép biện chứng duy vật để huấn luyện cán bộ, giải quyết mọi vấn đề khó khăn, phức tạp trên con đường lãnh đạo cách mạng Nước ta vượt qua bao sóng gió để tiến lên giành thắng lợi vẻ vang.
    Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh về “Sửa đổi lối làm việc” - sửa đổi phương pháp, phong cách làm việc, trước thực trạng đội ngũ cán bộ đảng viên mà Nghị quyết TW4 (Khóa XI) và Nghị quyết TW4 (Khóa XII) đã thẳng thắng chỉ ra, ngày 15/5/2016 Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (Khóa XII) đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, nhằm kiên trì xây dựng, chỉnh đốn Đảng, rèn luyện cho cán bộ đảng viên của Đảng thật sự có đạo đức cách mạng theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, đặc biệt là rèn luyện cho cán bộ đảng viên thấm nhuần và thực hiện tốt phong cách làm việc, phong cách sinh hoạt, phong cách sống theo tấm gương của Bác.
    Để đạt được điều đó, Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị yêu cầu toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đây là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng.., xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu… Lấy kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm.
    Có thể nói rằng, Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị là sự hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về “Sửa đổi lối làm việc”- những lời di huấn thiêng liêng của Người đối với cán bộ đảng viên trong toàn Đảng ta trước đây, ngày nay và mãi mãi sau này - Nó có ý nghĩa quyết định đến sự sống còn của Đảng, sự tồn vong của chế độ ta. Chỉ thị đã thể hiện sự thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Bác về đạo đức và phong cách làm việc đối với người cán bộ đảng viên, vì vậy để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là công bộc, là đầy tớ thật trung thành của Nhân dân thì hơn lúc nào hết mỗi cán bộ đảng viên cần phải nghiêm túc tự mình sửa đổi ngay lối làm việc theo đúng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại để củng cố niềm tin đối với Nhân dân, hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử mà Đảng và nhân dân giao phó.
Nguồn Trang tin điện tử Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
DI TÍCH LỊCH SỬ TẠI THĂNG BÌNH

    Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn tháng 4/2018, chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn đoàn viên thanh niên, các cơ sở Đoàn  về Di tích lịch sử “Chiến thắng Hà Châu, giải phóng xã Bình Phú”
    Tháng 4-1952, Đảng bộ huyện triệu tập Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VI tại đình An Hiệp (Bình Phú). Mặt trận tỉnh chủ trương xây dựng bệnh xá của tỉnh tại thôn Đức An để tiếp nhận thương binh, bệnh binh của chiến trường cả tỉnh về an dưỡng và điều trị. Cơ quan Huyện ủy và cán bộ Tỉnh ủy về đóng chân trên địa bàn xã Bình Phú để hoạt động. Cuối năm 1963, Đại hội Đảng bộ huyện Thăng Bình lần thứ VII họp tại nhà ông Thoại ở thôn Đồng Linh (Linh Cang), xã Bình Phú. Đây là điều kiện thuận lợi cơ bản của phong trào cách mạng Bình Phú trong việc tiếp thu tinh thần chỉ đạo của Đảng trong việc xây dựng phong trào và phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh.
    Chiến dịch tố cộng, diệt cộng của Mỹ Diệm kéo dài trong nhiều năm đã không thể nào dập tắt được phong trào cách mạng ở miền Nam, ngược lại đã thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh giết giặc giữ làng của các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt, Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, Nghị quyết về "tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà" ra đời và phong trào Đồng khởi năm (1959 - 1960) diễn ra khắp nơi ở miền Nam đã làm cho đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm lung lay, đứng trước nguy cơ sụp đổ. Để cứu vãn tình thế đó, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược Chiến tranh đặc biệt với kế hoạch đầu tiên mang tên Stalay - Tay lo. Chủ trương của bọn chúng là thực hiện các chiến dịch càn quét, dập tắt phong trào cách mạng miền Nam bằng chính sách dồn dân, lập ấp với tham vọng bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. Tại địa bàn Bình Phú, địch tập trung củng cố một bước chính quyền thôn, xã, mở rộng lực lượng ngụy quân, ngụy quyền, xây dựng chốt điểm trọng yếu tại đồi 59. Bọn chúng thành lập ở xã một trung đội dân vệ, ở thôn một trung đội thanh niên tân trang, sử dụng bọn công an mật thám, biệt kích áo xanh, bọn ác ôn chỉ điểm địa phương thường xuyên theo dõi, lùng sục các cơ sở cách mạng. Cùng với việc củng cố chính quyền, tăng cường lực lượng quân sự, cuối năm 1961, địch tiến hành lập ấp chiến lược Phước Hà để dồn dân quản lý. Sau đó địch tiếp tục lập ấp chiến lược Hà Châu, mà chúng cho là ấp chiến lược kiểu mẫu hay còn gọi là ấp chiến lược liên hoàn. Ấp chiến lược liên hoàn Hà Châu - An Lý gồm 2 khu: Khu Hà Châu là nơi giam giữ những gia đình địch cho là cộng sản, khu An Lý là nơi tập trung dân thường. Đây là ấp chiến lược điển hình được xây dựng đầu tiên ở Bình Phú, có hàng rào tre kiên cố bao bọc xung quanh, có trung đội dân vệ canh gác nghiêm ngặt, kiểm soát gắt gao mọi hoạt động của nhân dân trong ấp. Vì thế chúng luôn huênh hoang rằng Suối Hà Châu chảy ngược mới đánh được đồn Hà Châu.
    Trước tình hình Mỹ Diệm thực hiện các thủ đoạn mới, tiếp thu tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng do Huyện ủy Thăng Bình trực tiếp chỉ đạo, phong trào cách mạng của Bình Phú tiếp tục được phát triển trên cơ sở chuyển hướng hoạt động. Lực lượng cách mạng từ thế đấu tranh chính trị, giữ gìn lực lượng đã chuyển sang thế tiến công cách mạng bằng cả hai lực lượng chính trị và quân sự. Do đó, ta chủ trương tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang, coi xây dựng lực lượng vũ trang là vấn đề then chốt để đảm bảo sự thắng lợi của cách mạng.
    Với sự phát triển về số lượng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đội công tác và du kích xã Bình Phú đã tìm được phương thức hoạt động thích hợp, tổ chức các hoạt động đánh phá kìm kẹp gây cho địch nhiều hoang man, lo sợ. Đầu năm 1963, đội du kích xã Bình Phú gồm 15 đồng chí phối hợp với đội công tác xã tổ chức đánh phá ấp chiến lược Phước Hà, đưa nhân dân trở về làng cũ làm ăn.
    Bị đánh bật ra khỏi ấp chiến lược Phước Hà, địch rút về khu Đất Đỏ và ấp chiến lược Hà Châu. Cùng một lúc, du kích xã nhà phối hợp với bộ đội chủ lực của huyện tấn công địch ở Hố Lửa (Phước Cang), An Lý, xóm ông Bằng diệt gọn 18 tên, đánh bật 1 tiểu đoàn cộng hoà và 1 đại đội bảo an ra khỏi vùng giải phóng. Sau khi ta tổ chức đánh phá thành công ấp chiến lược Phước Hà, lực lượng cách mạng Bình Phú ngày càng được phát triển và hoạt động rộng khắp trên địa bàn. Trên đà thắng lợi, ta tiếp tục giải phóng Đồng Linh, Phước Cang, Đức An tạo được vùng căn cứ rộng lớn. Chính quyền cách mạng ở các thôn vừa mới giải phóng được thành lập. Lực lượng du kích xã phát triển thành một trung đội tự vệ. Các đoàn thể quần chúng như nông hội, thanh niên, phụ nữ, lão thành, thiếu nhi cũng ra đời và đi vào hoạt động. Đầu năm 1964, chi bộ Đảng Bình Phú tiến hành Đại hội lần thứ nhất với 16 đảng viên tham dự. Đại hội đã đánh giá quá trình lãnh đạo cách mạng trong những năm qua đồng thời dành nhiều thời gian để bàn bạc nhiệm vụ cách mạng xã nhà trong thời kỳ mới. Đại hội đã đề ra nhiều biện pháp nhằm thực hiện các nhiệm vụ:Chính trị, quân sự, sản xuất. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 3 đồng chí Trương Ngọc, Đoàn Ngọc Nhân, Nguyễn Văn Nho do đồng chí Trương Ngọc làm Bí thư. Đại hội chi bộ Đảng xã Bình Phú lần thứ nhất diễn ra thành công đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển của phong trào cách mạng xã nhà. Đại hội đã phân tích, làm rõ khả năng và khẳng định sự phát triển không ngừng của lực lượng cách mạng trong 10 năm kháng chiến (1954 - 1964), sự sáng suốt, nhạy bén, lòng quả cảm, trung kiên của cán bộ đảng viên trong việc tập hợp lực lượng và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
    Về phía địch, trước sự lớn mạnh không ngừng của lực lượng cách mạng, lực lượng tại chỗ của địch không đủ sức thực hiện các đợt càn quét vào vùng giải phóng của ta. Vì vậy, địch đã tăng cường trung đoàn 51 (núi Quế, Quế Sơn), sư đoàn 2 (Quảng Ngãi) có sự yểm trợ của trực thăng ồ ạt đổ quân trên các cao điểm ở Bình Phú. Đồng thời địch đã tiến hành bắt ép nhân dân các xã vùng đông Thăng Bình đổ về Bình Phú để vận chuyển tài sản, nhà cửa, lúa gạo, trâu bò...của nhân dân vùng giải phóng tập trung về khu dồn Hà Châu, An Lý. Gia đình nào cố tình chống cự, bọn chúng cho đốt phá nhà cửa, thóc gạo, bắn giết trâu bò, heo gà. Mặc dù phải dùng đến vũ lực để có thể dồn dân vào các khu dồn nhưng bọn chúng phải mất đến 5 tháng mới ổn định được tình hình ở Bình Phú.
Tiếp thu tinh thần Đại hội chiến sĩ thi đua toàn tỉnh và Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy (đầu năm 1964) về việc phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh phá kìm, phá ấp, xây dựng thực lực cách mạng tại chỗ. Đêm ngày 4, rạng sáng ngày 5 - 9 - 1964, lực lượng du kích xã phối hợp với đội công tác huyện và bộ đội Tiểu đoàn 70 lúc bấy giờ do đồng chí Cả - Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Đỗ Châu Sa - Tiểu đoàn phó, đồng chí Hà Liểm - Chính trị viên Tiểu đoàn. Dưới sự chỉ đạo, phân công của Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Đỗ Châu Sa đã sử dụng 2 Đại đội, Đại đội 2 đánh phá Đồi Đất Đỏ, Đại đội 1 đánh phá Ấp Hà Châu. Để đánh phá được Ấp Hà Châu, Đại đội 1 do đồng chí Phương - Đại đội trưởng, chia làm hai mũi tấn công, mũi thứ nhất từ dọc tuyến đường Đồi Đất Đỏ đánh thẳng xuống phía Bắc Ấp Hà Châu, mũi thứ hai đi bao từ phía đập An Lý, đánh thọc ra phía Nam Ấp Hà Châu.
    Lúc bấy giờ, giữa ta và địch đang tương quan lực lượng. Về phía địch ở Ấp Hà Châu có 1 Đại đội Bảo an 80 người và 1 Trung đội dân vệ. Về phía ta Đại đội 1 của Tiểu đoàn 70 có 75 người cùng với đội du kích xã Bình Phú và Đội công tác huyện Thăng Bình sử dụng súng AK, súng trường mách, súng tiểu liên, cối 60 và súng Kbin thu được từ lính nghĩa quân để đánh trả lại chúng. Trong vòng 40 phút, Đại đội 1 của Tiểu đoàn 70 và lực lượng địa phương đã đánh phá hoàn toàn Ấp chiến lược Hà Châu, diệt gọn Đại đội Bảo an, bắt sống 4 tù binh, thu 2 khẩu trung liên, 3 khẩu cối 81, 40 khẩu tiểu liên, đốt cháy ấp chiến lược, đưa gần 100 hộ dân trở về làng cũ. Trong trận này về phía ta hy sinh 1 đồng chí, bị thương 2 đồng chí.
    Như vậy, sáng ngày 05/9/1964 ta đã chiến thắng Ấp Hà Châu và giải phóng hoàn toàn xã Bình Phú.
    Qua đây, cho thấy ý nghĩa của trận đánh này, là phá vỡ vòng vây của địch, không cho chúng khôi phục lại các Ấp chiến lược, đánh tan mục tiêu bình định của địch là dồn dân lập Ấp. Đưa nhân dân trở về làng cũ, để khôi phục lực lượng cách mạng tại địa phương vững mạnh. Tạo thế vững chắc, an toàn cho “Khu căn cứ Huyện ủy Thăng Bình” tại thôn Linh Cang. Đồng thời mở ra con đường chiến lược cho bộ đội chủ lực từ Sơn – Cẩm – Hà tiến xuống giải phóng các xã vùng đông của huyện Thăng Bình.
(Tư liệu)
                                                                  T.L
 
THEO DÒNG LỊCH SỬ
    Những ngày đáng nhớ trong tháng 4:
    - 10/3 (âm lịch): Ngày giỗ tổ Hùng Vương
    - 07/4/1907: Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn
    - 25/4/1976: Ngày tổng tuyển cử bầu quốc hội chung của cả nước
    - 27/4/1998: Ngày mất của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh
    - 30/4/1975: Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
    - 01/5/1886: Ngày Quốc tế Lao động.
    Ngày Giỗ tổ Hùng Vương, Mùng 10 tháng 3 (âm lịch)
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”
    Trong lịch sử Việt Nam, những người có công lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ nhân dân, chống ngoại xâm đều được nhân dân ta nhớ ơn. Một trong những ngày kỷ niệm mà mọi người dân yêu nước từ Bắc chí Nam đều biết và đã có từ ngàn xưa đến ngày nay là Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.
Trong nhiều truyền thống tốt đẹp, dân tộc Việt Nam ta luôn giữ vững một truyền thống có ý nghĩa hay và đẹp vô cùng: tưởng nhớ tổ tiên, tưởng nhớ những người đã có công lớn trong việc dựng nước và giữ nước.
    Hàng năm, vào dịp mùng 10/3 âm lịch, hàng chục vạn lượt đồng bào từ khắp mọi miền trong cả nước về Đền Hùng trẩy hội, thắp hương thơm thành kính lễ tổ tiên, tưởng nhớ công đức to lớn của các Vua Hùng dựng nước.
Do nhu cầu trị thủy, chống giặc ngoại xâm và do việc trao đổi kinh tế -văn hóa ngày càng được đẩy mạnh, giữa các bộ lạc gần gũi nhau về dòng máu có xu hướng tập hợp và thống nhất với nhau. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, có bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả, lãnh thổ của bộ lạc này trải dài từ chân núi Ba Vì tới sườn Tam Đảo. Thủ lĩnh của bộ lạc Văn Lang đã đóng vai trò lịch sử là người đứng ra thống nhất các bộ lạc Lạc Việt dựng nên nước Văn Lang, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu (nay là xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ), chia nước ra 15 bộ:
1. Văn Lang (Bạch Hạc, Phú Thọ)
2. Châu Diên (Sơn Tây)
3. Phú Lộc (Sơn Tây)
4. Tân Hưng (Hưng Hóa - Tuyên Quang)
5. Vũ Định (Thái Nguyên - Cao Bằng)
6. Vũ Ninh (Bắc Ninh)
7. Lục Hải (Lạng Sơn)
8. Ninh Hải (Quảng Yên)
9. Dương Tuyền (Hải Dương)
10. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình)
11. Cửu Chân (Thanh Hóa)
12. Hoài Hoan (Nghệ An)
13. Cửu Đức (Hà Tĩnh)
14. Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị)
15. Bình Văn (không rõ địa danh hiện nay)
Các đời vua sau đều gọi là Hùng Vương. Theo Ngọc phả Hùng Vương, có 18 đời vua Hùng:
1. Kinh Dương Vương Lộc Tục, tôn dâng miến hiệu là Hưng Dương- vị vua viễn tổ.
2. Lạc Long Quân Sùng Lâm, thụy hiệu Hùng Hiền - vị vua cao tổ.
3. Hùng Quốc Vương, húy là Lân Lang - vị vua mở nước.
4. Hùng Diệp Vương Bảo Lang.
5. Hùng Huy Vương Lang Viên Lang.
6. Hùng Huy Vương (cùng hiệu với đời thứ năm), húy là Pháp Hải Lang.
7. Hùng Chiêu Vương Tiên Lang.
8. Hùng Vi Vương Thừa Vân Lang.
9. Hùng Duy Vương Quốc Lang.
10. Hùng Uy Vương Vương Hùng Hải Lang.
11. Hùng Chính Vương Hùng Đức Lang.
12. Hùng Vũ Vương Đức Hiền Lang.
13. Hùng Việt Vương Tuấn Lang.
14. Hùng Anh Vương Châu Nhân Lang.
15. Hùng Chiêu Vương Cảnh Châu Lang.
16. Hùng Tạo Vương Đức Quân Lang.
17. Hùng Nghị Vương Bảo Quang Lang.
18. Hùng Duệ Vương Huệ Lang.
    Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng là nhà nước phôi thai đầu tiên của Việt Nam, còn rất đơn giản, mặc dù mới hình thành nhưng đã cố kết được lòng người.
    Nhìn chung, cha ông ta đã dựng nước trong một khung cảnh thiên nhiên thích hợp, thuận lợi, trên một dải đất có nhiều núi cao, rừng rậm, nhiều sông ngòi, hồ ao, có các ngả đường giao thông quan trọng với các miền khác; đó cũng là miền đất giàu có, nhiều khoáng sản, lâm sản, hải sản, nhất là lại có những cánh đồng phì nhiêu thích hợp với nghề nông. Những yếu tố thiên nhiên này đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tiến bộ về kinh tế và văn hóa, dẫn đến việc dựng nước Văn Lang, một nước có đủ sức chống ngoại xâm, có nền văn hóa phát triển của vùng Đông Nam Á thời đó.
    Hùng Vương là thủ lĩnh của nước Việt Nam thời kỳ bắt đầu dựng nước. Lãnh thổ đầu tiên của tổ tiên là miền Bắc Việt Nam. Những nhóm dân quan trọng nhất là người Việt cổ, ban đầu họ sống thành từng công xã, ràng buộc với nhau bởi mối quan hệ máu mủ. Họ đoàn kết tương thân, tương ái trong công việc làm ăn và giữ nước. Con người Việt Nam thời Hùng Vương vừa mới cố sức vươn lên khỏi cuộc sống tự nhiên đầy khó khăn gian khổ, rừng rậm, đầm lầy, thú dữ, bão giông, lụt lội… đã phải đương đầu với kẻ thù xâm lược. Tản Viên Sơn Thần (Sơn Tinh vị thần núi Tản Viên) là truyền thuyết tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên cho chiến thắng thiên tai; Thánh Gióng là truyền thuyết ca ngợi tinh thần chiến đấu bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta… Những truyền thống tốt đẹp đó duy trì bền vững trong xã hội Việt Nam.
    Thời kỳ Hùng Vương là một giai đoạn rất quan trọng trong lịch sử dân tộc, chính thời kỳ này đã xây dựng nên một nền tảng của dân tộc Việt Nam, nền tảng văn hóa Việt Nam và truyền thống yêu nước Việt Nam.
    Từ lâu, nhân dân ta lấy ngày mùng 10/3 (âm lịch) hàng năm làm Ngày Giỗ Tổ và cùng nhau trẩy hội Đền Hùng để tưởng nhớ đến cội nguồn, tổ tiên của dân tộc Việt Nam theo đúng với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.
Sáng ngày 19/9/1954 tại Đền Giếng trong khu di tích Đền Hùng tỉnh Phú Thọ, khi gặp gỡ các chiến sĩ Đại đoàn 308 trước khi về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, Bác Hồ đã căn dặn:
“Các Vua Hùng đã có công dựng nước.
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”.
    Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, người dân Việt Nam càng tự hào với giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tưởng nhớ tổ tiên, tưởng nhớ những người đã có công lớn trong việc dựng nước và giữ nước. Do vậy, mỗi công dân Việt Nam luôn có trách nhiệm: nêu bật những giá trị lịch sử, văn hóa và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam; giới thiệu những phong tục, tập quán tốt đẹp của cộng đồng dân tộc Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước; có ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động, dũng cảm trong đấu tranh dựng nước và giữ nước; ủng hộ và thực hiện những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; cổ vũ các tầng lớp nhân dân, người Việt Nam ở nước ngoài hướng về cội nguồn dân tộc, đồng lòng, chung sức xây dựng đất nước hội nhập và phát triển.
 
25/4/1976: Ngày tổng tuyển cử bầu quốc hội chung của cả nước
 
    Ngày 25/4/1976, Nhân dân khắp hai miền Bắc- Nam nô nức tham gia Tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Đây là lần thứ hai cuộc Tổng tuyển cử được tổ chức trên phạm vi cả nước, sau lần đầu tổ chức từ ngày 06/01/1946. Hơn 23 triệu cử tri (98.8% tổng số cử tri) đi bầu và đã bầu ra 492 đại biểu. Kết quả của Tổng tuyển cử là một thắng lợi có ý nghĩa quyết định trên con đường tiến tới hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước.
    Ngày 24/6/1976, Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất, được gọi là Quốc hội khóa VI với ý nghĩa kế tục sự nghiệp của 5 khóa Quốc hội trước, họp kỳ đầu tiên tại Hà Nội. Quốc hội quyết định đặt tên nước Việt Nam thống nhất là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua chính sách đối nội, đối ngoại, bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của Nhà nước, quy định các nguyên tắc xây dựng bộ máy chính quyền các cấp, quy định quốc kỳ, quốc ca, bầu Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Với kết quả của kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI, công việc thống nhất đất nước về mặt Nhà nước đã hoàn thành, đáp ứng nguyện vọng của quần chúng Nhân dân, đáp ứng yêu cầu tất yếu khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện của đất nước, tập trung cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất, mở ra khả năng to lớn để phát triển quan hệ với các nước trên thế giới. Những thành quả bước đầu trong sự nghiệp thống nhất đất nước năm đầu tiên sau hòa bình đã cho phép hai miền cùng bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm trên phạm vi cả nước. 
 
Ngày Quốc tế lao động 1/5: Lịch sử và ý nghĩa
 
    Ngày Quốc tế lao động, ngày hội của những người lao động toàn thế giới, được tổ chức vào 01/5 hàng năm.
   Trong cuộc đấu tranh giữa tư bản và lao động, vấn đề thời gian lao động có ý nghĩa quan trọng. Ngay sau khi thành lập Quốc tế I năm 1864, Mác coi việc rút ngắn thời gian lao động là nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp vô sản. Tại Đại hội I Quốc tế I họp tại Giơ-ne-vơ tháng 9/1866 vấn đề đấu tranh cho ngày làm việc 8 giờ được coi là nhiệm vụ trước mắt. Khẩu hiệu ngày làm 8 giờ sớm xuất hiện trong một số nơi của nước Anh- nước có nền công nghiệp phát triển sớm nhất. Yêu sách này dần lan sang các nước khác.
    Phong trào đòi làm việc 8 giờ phát triển mạnh ở nước Mỹ từ năm 1827 đi đôi với sự nảy nở và phát triển phong trào Công đoàn. Năm 1868, giới cầm quyền Mỹ buộc phải thông qua đạo luật ấn định ngày làm 8 giờ trong các cơ quan, xí nghiệp thuộc Chính phủ. Nhưng xí nghiệp tư nhân vẫn giữ ngày làm việc từ 11 đến 12 giờ.
    Tháng 4/1884 tại thành phố công nghiệp lớn Si-ca-gô, Đại hội Liên đoàn lao động Mỹ thông qua Nghị quyết nêu rõ: từ ngày 01/5/1886 ngày lao động của tất cả công nhân sẽ là 8 giờ.
    Ngày 01/5/1886, công nhân toàn thành phố Si-ca-gô tiến hành bãi công, 40 nghìn người không đến nhà máy. Họ tổ chức mittinh, biểu tình trên thành phố với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ học tập”, cuộc đấu tranh lôi cuốn ngày càng đông người tham gia. Cùng ngày đó, các Trung tâm công nghiệp ở nước Mỹ đã nổ ra 5.000 cuộc bãi công với 340 nghìn công nhân tham gia. Ở một số nơi như Niu-Oóc, Pi-Xbớc, Ban-ti-mo, Oa-sinh-tơn… có khoảng 12 vạn rưỡi công nhân giành được quyền làm việc 8 giờ một ngày, khẩu hiệu “Ngày làm việc 8 giờ” trở thành tiếng nói chung của toàn thể giai cấp công nhân. Ở nhiều nơi cảnh sát đã đàn áp các cuộc biểu tình, đặc biệt ở thành phố Si-ca-gô cảnh sát đã tàn sát đẫm máu cuộc đấu tranh, làm hơn một trăm người chết, nhiều thủ lĩnh Công đoàn bị bắt và bị kết án tử hình.
    Mặc dù cuộc bãi công ở Si-ca-gô bị trấn áp, nhưng khí phách anh hùng của công nhân và yêu cầu thiết thực của cuộc đấu tranh đã gây chấn động lớn trong giai cấp công nhân thế giới; công nhân nhiều nước đã đồng tình và hưởng ứng yêu sách của công nhân Si-ca-gô. Vì thế tại Đại hội thành lập Quốc tế II do Ph.Ăng-ghen lãnh đạo họp ngày 14/7/1889, Đại biểu của giai cấp công nhân thông qua Nghị quyết lấy ngày 01/5 hàng năm làm ngày đoàn kết đấu tranh của giai cấp vô sản toàn thế giới.
    Thực hiện Nghị quyết trên, năm 1890 lần đầu tiên ngày Quốc tế lao động 01/5 được tổ chức trên quy mô thế giới.
Ngày 01/5 ở các nước xã hội chủ nghĩa, đã coi là ngày mừng thắng lợi đã đạt được, nêu quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ mới và biểu lộ tình đoàn kết với những người lao động các nước khác. Ở các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa, ngày 01/5 là ngày biểu dương cho lực lượng lao động, đấu tranh cho hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội.
    Ở Việt Nam, sau khi Đảng cộng sản Đông Dương ra đời (1930), giai cấp công nhân Việt Nam cũng lấy ngày 01/5 là ngày đoàn kết đấu tranh của mình. Cuộc đấu tranh ngày 01/5/1930 là một bước ngoặt của cao trào cách mạng 1930- 1931, từ thành thị đến nông thôn, từ Bắc đến Nam nhiều nơi treo cờ Đảng, tổ chức mittinh, tuần hành thị uy, lần đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng và hướng dẫn vận động của Công hội, công nhân ta biểu tình kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 01/5 đấu tranh đòi quyền lợi, tỏ tình đoàn kết với công nhân lao động thế giới.
    Trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám việc kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 01/5 phần nhiều phải tổ chức bí mật bằng hình thức treo cờ, rải truyền đơn. Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp và Mặt trận dân chủ Đông Dương, ngày Quốc tế lao động lần đầu tiên được tổ chức công khai tại Hà Nội, thu hút đông đảo các tầng lớp Nhân dân tham gia.
    Ngày nay, ngày Quốc tế lao động là ngày hội của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động nước ta, ngày đoàn kết giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nguồn: lichsuvietnam.vn
 
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC DÀNH CHO THANH NIÊN
 
    Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn tháng 4/2018, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên, thanh niên, các tổ chức Đoàn nội dung còn lại Quyết định số 57/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với hoạt động tình nguyện của Thanh niên được ban hành ngày 16/11/2015 với các nội dung sau:
    Chương III: CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÌNH NGUYỆN CỦA THANH NIÊN VÌ CỘNG ĐỒNG, XÃ HỘI
    Điều 7. Chính sách đối với thanh niên trong quá trình tham gia hoạt động tình nguyện
1. Được tập huấn, bồi dưỡng về kiến thức, nghiệp vụ và kỹ năng hoạt động tình nguyện.
2. Được hưởng tiền bồi dưỡng trong thời gian hoạt động tình nguyện, được trang bị phương tiện làm việc, phương tiện bảo hộ cá nhân (nếu có) bảo đảm an toàn, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ hoạt động tình nguyện.
3. Được tham gia hoạt động đoàn thể; được bồi dưỡng, xét kết nạp vào Đoàn, kết nạp Đảng nếu đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Điều lệ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Thanh niên có hành động dũng cảm bị chết hoặc bị thương thuộc một trong các trường hợp theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng thì được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi diễn ra hoạt động tình nguyện đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, công nhận là liệt sĩ hoặc quyết định được hưởng chính sách như thương binh theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng.
5. Thanh niên có tham gia đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế thì được hưởng chế độ theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
6. Thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bắt buộc và chưa tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tự nguyện trong khi hoạt động tình nguyện bị tai nạn thì được cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện bảo đảm chính sách sau đây:
a) Trường hợp bị tai nạn dẫn đến suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được hỗ trợ tối thiểu một nửa chi phí cứu chữa, phục hồi sức khỏe, phục hồi chức năng bị suy giảm;
b) Trường hợp bị tai nạn dẫn đến suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì ngoài chế độ hỗ trợ được hưởng theo quy định tại Điểm a Khoản này còn được trợ cấp một lần bằng 03 lần mức lương cơ sở, sau đó cứ suy giảm thêm 01% thì được hưởng thêm 0,5 lần mức lương cơ sở;
c) Trường hợp bị chết do tai nạn lao động thì được trợ cấp một lần bằng 36 lần mức lương cơ sở.
7. Thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện bị chết thì được cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện hỗ trợ mai táng và phương tiện đưa về quê quán, gia đình.
    Điều 8. Chính sách đối với thanh niên sau khi kết thúc hoạt động tình nguyện
1. Được hưởng chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và tạo việc làm theo quy định của pháp luật về giáo dục nghề nghiệp và quy định của pháp luật về việc làm.
2. Được xem xét, ưu tiên tuyển chọn tham gia các chương trình, đề án, dự án phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc nếu hoạt động tình nguyện từ 03 tháng trở lên. Trường hợp tham gia nhiều hoạt động tình nguyện theo đợt thì được cộng dồn thời gian tham gia hoạt động tình nguyện.
3. Thanh niên là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế nhà nước, lực lượng vũ trang tham gia hoạt động tình nguyện có hành động dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và của Nhân dân mà bị thương cần điều trị theo kết luận của cơ quan y tế thì thời gian nghỉ làm việc để điều trị vẫn được tính vào thời gian hưởng các chế độ, chính sách của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
4. Thanh niên là học sinh, sinh viên tham gia hoạt động tình nguyện có hành động dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và của Nhân dân mà bị thương cần điều trị theo kết luận của cơ quan y tế, làm gián đoạn quá trình học tập thì được xem xét, tạo điều kiện để hoàn thành chương trình học tập.
5. Thanh niên có thành tích xuất sắc trong hoạt động tình nguyện được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
    Điều 9. Chính sách đối với cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện vì cộng đồng, xã hội
1. Được huy động, sử dụng viện trợ, tài trợ bằng tiền mặt hoặc bằng sản phẩm, hàng hóa từ các nguồn viện trợ, tài trợ hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
2. Được Ủy ban nhân dân các cấp tạo điều kiện, bảo đảm an ninh, trật tự trong quá trình tổ chức hoạt động tình nguyện.
3. Cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện có thành tích xuất sắc trong hoạt động tình nguyện được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
    Chương IV: TRÁCH NHIỆM THỰC HIỆN VÀ ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
    Điều 10. Trách nhiệm của thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện
1. Thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 3 Quyết định này thực hiện trách nhiệm được phân công tại chương trình, đề án, dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
2. Thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 3 Quyết định này có trách nhiệm sau đây:
a) Đăng ký tham gia hoạt động tình nguyện với cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện;
b) Chấp hành quy định của pháp luật, nội quy của cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện và phong tục, tập quán của địa phương nơi diễn ra hoạt động tình nguyện;
c) Thực hiện nhiệm vụ theo phân công của cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện; đoàn kết, phối hợp tốt với thanh niên địa phương trong quá trình hoạt động tình nguyện;
d) Thanh niên là cán bộ, công chức, viên chức tham gia hoạt động tình nguyện phải báo cáo và được cơ quan có thẩm quyền quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức chấp thuận;
đ) Thanh niên là học sinh, sinh viên tham gia hoạt động tình nguyện trong thời gian học tập phải báo cáo và được cơ quan, đơn vị quản lý trực tiếp chấp thuận.
    Điều 11. Trách nhiệm của cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện
1. Cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 3 Quyết định này có trách nhiệm bảo đảm chính sách đối với thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện quy định tại Điều 5 và Điều 6 Quyết định này và các chế độ, chính sách khác trong chương trình, đề án, dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
2. Cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 3 Quyết định này cótrách nhiệm sau đây:
a) Xây dựng kế hoạch tổ chức hoạt động tình nguyện, trong đó nêu rõ mục đích, thời gian, địa điểm, nội dung, chương trình hoạt động tình nguyện, số lượng, thành phần thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện;
b) Gửi kế hoạch tổ chức hoạt động tình nguyện trước khi tổ chức hoạt động tình nguyện đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi diễn ra hoạt động tình nguyện; đến Ủy ban nhân dân cấp huyện nếu hoạt động tình nguyện diễn ra trên địa bàn hai xã thuộc huyện trở lên; đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nếu hoạt động tình nguyện diễn ra trên địa bàn hai huyện thuộc tỉnh trở lên. Đồng thời, phối hợp với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cùng cấp tổ chức thực hiện;
c) Tổ chức hoạt động tình nguyện, quản lý thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện bảo đảm đúng kế hoạch, an toàn, hiệu quả, tránh hình thức gây lãng phí và phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương;
d) Xây dựng nội quy hoạt động tình nguyện, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cần thiết cho thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện;
đ) Cung cấp trang thiết bị làm việc, phương tiện bảo hộ cá nhân cần thiết, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ hoạt động tình nguyện; bảo đảm sức khỏe và an toàn cho thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện;
e) Chi trả tiền bồi dưỡng cho thanh niên trong thời gian hoạt động tình nguyện (nếu có);
g) Hỗ trợ hoặc thanh toán toàn bộ chi phí hoặc trợ cấp đối với các trường hợp quy định tại Khoản 6, Khoản 7 và Khoản 8 Điều 7 Quyết định này;
h) Cung cấp thông tin khi có yêu cầu cho chính quyền địa phương và các cơ quan, tổ chức liên quan trong quá trình tổ chức hoạt động tình nguyện;
i) Cấp Giấy chứng nhận tham gia hoạt động tình nguyện đối với thanh niên hoàn thành tốt nhiệm vụ tình nguyện, làm căn cứ để ưu tiên xem xét, tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động vào làm việc trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức kinh tế tại Việt Nam.
3. Người đứng đầu cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về những hành vi vi phạm của thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện.
    Điều 12. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp nơi diễn ra hoạt động tình nguyện
1. Ủy ban nhân dân các cấp nơi diễn ra hoạt động tình nguyện quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 3 Quyết định này thực hiện trách nhiệm được phân công tại chương trình, đề án, dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và trách nhiệm quy định tại Điểm b và Điểm d Khoản 2 Điều này.
2. Ủy ban nhân dân các cấp nơi diễn ra hoạt động tình nguyện quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 3 Quyết định này có trách nhiệm sau đây:
a) Thông báo việc tiếp nhận hoạt động tình nguyện tại địa phương với cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện theo thẩm quyền; trường hợp không đồng ý phải nêu rõ lý do (về mục tiêu, phạm vi, nội dung, số lượng, thành phần thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện);
b) Tạo điều kiện, bảo đảm an ninh, trật tự để các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động tình nguyện theo đúng kế hoạch tổ chức hoạt động tình nguyện;
c) Tạm dừng hoặc chấm dứt các hoạt động tình nguyện vi phạm pháp luật hoặc không đúng với kế hoạch tổ chức hoạt động tình nguyện;
d) Báo cáo, đề xuất với cấp có thẩm quyền xử lý, giải quyết kịp thời trường hợp vi phạm pháp luật trong hoạt động tình nguyện trên địa bàn.
    Điều 13. Trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
1. Bộ Nội vụ
a) Chủ trì, phối hợp với Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức thực hiện chính sách đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên;
b) Hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện; định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá để làm cơ sở đề xuất với cấp có thẩm quyền hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo
a) Chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở giáo dục công nhận kết quả tham gia hoạt động tình nguyện của học sinh, sinh viên trong việc đánh giá, xếp loại, xét tốt nghiệp theo quy chế, quy định của pháp luật về giáo dục, đào tạo;
b) Ban hành theo thẩm quyền các hình thức biểu dương, khen thưởng đối với thanh niên trong các cơ sở giáo dục tích cực tham gia và hoàn thành tốt nhiệm vụ hoạt động tình nguyện.
3. Các bộ, cơ quan ở Trung ương và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
a) Thực hiện việc tổ chức, quản lý các hoạt động tình nguyện của thanh niên theo quy định tại Quyết định này;
b) Tạo điều kiện cho các hoạt động tình nguyện của thanh niên trong phạm vi quản lý; có cơ chế huy động thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện;
c) Hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện; định kỳ báo cáo kết quả hoạt động tình nguyện của thanh niên về Bộ Nội vụ để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ;
d) Quan tâm, chăm lo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của thanh niên; huy động các nguồn lực trong xã hội bảo đảm cho hoạt động tình nguyện của thanh niên;
đ) Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền về chính sách đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên.
    Điều 14. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
1. Tổ chức tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức của thanh niên và phát huy vai trò của thanh niên trong việc tham gia các hoạt động tình nguyện.
2. Phối hợp với các bộ và cơ quan ở Trung ương chỉ đạo, định hướng hoạt động tình nguyện của thanh niên.
3. Chỉ đạo, hướng dẫn Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các tổ chức hợp pháp khác của thanh niên quản lý, kết nối, nắm bắt thông tin, tạo điều kiện hỗ trợ thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện.
4. Hướng dẫn các cấp bộ đoàn về phương thức huy động thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện trong tổ chức của mình.
5. Khen thưởng, tôn vinh các tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động tình nguyện.
    Điều 15. Điều khoản thi hành
1. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016.
2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
 Nguồn: thuvienphapluat.vn
 
SỔ TAY NGHIỆP VỤ
 
    Quy trình chuyển sinh hoạt đoàn theo hướng dẫn thực hiện Điều lệ Đoàn
    1. Đoàn viên khi chuyển sinh hoạt đoàn thì đề nghị ban chấp hành chi đoàn (hoặc chi đoàn cơ sở) nơi đang sinh hoạt để được chuyển sinh hoạt.
- Trách nhiệm của ban chấp hành chi đoàn:
+ Nhận xét đoàn viên vào Sổ đoàn viên và thu đoàn phí đến thời điểm chuyển sinh hoạt đoàn (trường hợp đoàn viên sinh hoạt tại chi đoàn cơ sở thì ban chấp hành chi đoàn cơ sở nhận xét, thu đoàn phí và trực tiếp tiến hành thủ tục chuyển sinh hoạt đoàn cho đoàn viên)
+ Giới thiệu đoàn viên đến đoàn cơ sở để làm tiếp thủ tục chuyển sinh hoạt Đoàn.
+ Tiếp nhận đoàn viên do đoàn cơ sở hoặc chi đoàn cơ sở giới thiệu đến sinh hoạt.
- Trách nhiệm của đoàn cơ sở, chi đoàn cơ sở:
+ Trường hợp đoàn viên chuyển sinh hoạt trong cùng một đoàn cơ sở thì ban chấp hành đoàn cơ sở giới thiệu đoàn viên về sinh hoạt tại chi đoàn mới.
+ Trường hợp đoàn viên chuyển sinh hoạt sang đoàn cơ sở khác thì ban chấp hành đoàn cơ sở giới thiệu đến ban chấp hành đoàn cơ sở mới.
+ Khi tiếp nhận đoàn viên từ nơi khác giới thiệu đến, ban chấp hành đoàn cơ sở giới thiệu đoàn viên về sinh hoạt tại chi đoàn trực thuộc.
    2. Một số trường hợp khác:
- Đoàn viên là bộ đội xuất ngũ, chuyển ngành, là học sinh, sinh viên đã tốt nghiệp các trường đang trong thời gian chờ để chuyển lĩnh vực công tác, học tập, lao động mới nếu thời gian chờ từ 03 tháng trở lên thì phải chuyển sinh hoạt về cơ sở đoàn nơi đoàn viên cư trú.
- Chuyển sinh hoạt đoàn tạm thời:
+ Đoàn viên đi học tập, lao động, công tác, đoàn viên là học sinh, sinh viên trong thời gian nghỉ hè, đi thực tập, thực tế với thời gian không quá 03 tháng thì chuyển sinh hoạt đoàn tạm thời đến cơ sở đoàn nơi học tập, lao động, công tác hoặc nơi cư trú mới. Đoàn cơ sở (chi đoàn cơ sở) có trách nhiệm làm thủ tục giới thiệu và tiếp nhận đoàn viên chuyển sinh hoạt đoàn tạm thời.
+ Việc chuyển sinh hoạt đoàn tạm thời có thể thực hiện bằng thẻ đoàn viên hoặc giấy chuyển sinh hoạt đoàn tạm thời theo mẫu do Ban Bí thư Trung ương Đoàn quy định thống nhất.
+ Trong thời gian sinh hoạt tạm thời, đoàn viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại điều 2, điều 3 của Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trừ quyền ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đoàn nơi đang sinh hoạt tạm thời.
- Đoàn viên chuyển đến những nơi chưa có tổ chức Đoàn vẫn phải làm thủ tục chuyển sinh hoạt đoàn như đã quy định. Khi đến nơi mới, xuất trình hồ sơ và báo cáo với tổ chức Đảng, khi chuyển công tác đi nơi khác đề nghị tổ chức Đảng nhận xét ưu, khuyết điểm và giới thiệu về ban chấp hành đoàn cơ sở nơi tiếp nhận đoàn viên. Trường hợp nơi đoàn viên lao động, học tập, công tác không có tổ chức Đảng, Đoàn thì đoàn viên đó phải sinh hoạt ở nơi cư trú.
- Trường hợp do thất lạc hồ sơ đoàn viên thì thủ tục chuyển sinh hoạt đoàn phải có bản tường trình và xác nhận của cơ sở đoàn nơi chuyển đi, được làm lại hồ sơ tại nơi chuyển đến. Trường hợp còn thẻ đoàn viên hoặc những văn bản xác nhận là đoàn viên, đảm bảo các quy định của Điều lệ Đoàn thì làm lại sổ đoàn viên tại nơi chuyển đến. Các trường hợp khác thì bồi dưỡng, xét kết nạp đoàn viên như điều 1, Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
- Chuyển sinh hoạt đoàn ra nước ngoài, từ nước ngoài về nước thực hiện theo hướng dẫn liên tịch giữa Ban Bí thư Trung ương Đoàn với Đảng ủy ngoài nước.

 
MÔ HÌNH- KINH NGHIỆM
 
Hiệu quả mô hình nuôi ốc hương có mái che
    Anh Nguyễn Văn Châu sinh trưởng ở làng biển Sơn Hải tỉnh Ninh Thuận là nông dân đầu tiên ở địa phương đầu tư nuôi ốc hương thương phẩm trong hồ xi măng có mái che. Ốc hương được nuôi dưỡng trong môi trường thoáng mát, cách ly dịch bệnh, sinh trưởng tốt. Mô hình này bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế cao cần được nghiên cứu áp dụng trên địa bàn tỉnh.
    Trao đổi với người nông dân nuôi ốc hương vào diện “đầu bảng” ở xã Phước Dinh, chúng tôi được biết anh Châu đã có nhiều năm gắn bó với nghề nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Nghề nuôi tôm thương phẩm trong những năm gần đây kém hiệu quả do nguồn nước bị ô nhiễm. Từ năm 2014, anh Châu quyết định chuyển sang nuôi ốc hương trong hồ xi măng có mái che. Cơ sở này do anh sang nhượng lại của một doanh nhân từ TP. Hồ Chí Minh ra Sơn Hải đầu tư nuôi ốc hương bị “thất bại” do chưa nắm vững kỹ thuật nuôi. Trong đó có 4 ha ao nuôi ốc hương lộ thiên và 1 ha xây dựng 110 hồ xi măng nuôi ốc hương thương phẩm. Sau khi sang nhượng, anh Châu thay mái lá dừa nước bằng mái tole và lợp lưới chống nóng; nền hồ lót cát biển dày 6 cm. Đồng thời khoan giếng bơm nước biển lên lắng lọc cung cấp nguồn nước sạch cho hồ nuôi. Đối với ao nuôi lộ thiên, anh đầu tư lợp lưới đen thử nghiệm trên diện tích 2 ha nhằm giảm ánh nắng tác động lên ao nuôi.
    Vụ đầu tiên vào giữa năm 2014, anh Châu thả giống nuôi ốc hương mật độ 10 ngàn con/hồ/32m2. Anh cung cấp thức ăn cho ốc hương bằng nguồn tôm, ghẹ tươi. Sau mỗi lần cho ăn nguồn nước cũ được tháo xả và bơm nước mới vào hồ tạo môi trường nước sạch kết hợp sục khí tăng khả năng trao đổi oxy. Nhờ biện pháp nuôi dưỡng trong môi trường nước sạch, đầy đủ dinh dưỡng, không sử dụng kháng sinh, ốc hương của gia đình anh Châu sống khỏe, nhanh lớn. Sau 5-6 tháng nuôi, anh xuất ốc hương bán nội địa cở 80- 100 con/kg được thương lái thu mua với giá 200- 250 ngàn đồng/kg. Đối với ao nuôi lộ thiên sử dụng lưới che nắng tạo môi trường thuận lợi cho ốc hương sinh trưởng tốt. Nhờ ứng dụng hiệu quả các biện pháp kỹ thuật phù hợp chu kỳ sinh trưởng của ốc hương giúp anh Châu có những “mùa vàng” bội thu từ vật nuôi mới trên địa bàn xã Phước Dinh. Trung bình mỗi năm, anh xuất ao 70- 80 tấn ốc hương thương phẩm thu doanh thu vài chục tỉ đồng. Anh nghiên cứu nuôi thành công ốc hương bố mẹ cho sinh sản chủ động nguồn con giống sạch tại trang trại. Anh Châu tạo việc làm thường xuyên cho 30- 40 lao động địa phương có thu nhập trên 5 triệu đồng/tháng. Đối với lao động gắn bó với chủ trại được anh thưởng lương tháng 13 vào dịp cuối năm và ứng trước tiền công cho lao động mượn cải thiện nhà ở.
    Khi được hỏi về bí quyết thành công trong nghề nuôi ốc hương thương phẩm có mái che, anh Châu cười hồn hậu, chia sẻ: “Tui thay lá dừa nước bằng mái lole có lưới chống nóng vừa mát về mùa hè vừa ấm về mùa đông kết hợp thay nước sạch thường xuyên và cung cấp đầy đủ thức ăn nên con ốc hương “sống khỏe”. Đối với ao nuôi ngoài trời, tui giăng lưới để ngăn ánh nắng tạo môi trường cho tảo phát triển làm “mái che” cho ốc hương sinh trưởng. Hiện nay, khi cải tạo ao nuôi tui rải mật đường tạo môi trường cho tảo phát triển nên không phải dùng lưới che. Tui sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm nuôi ốc hương cho bà con thôn xóm vươn lên làm giàu chính đáng từ tiềm năng và lợi thế địa phương, góp phần xây dựng nông thôn mới”.
    Đồng chí Nguyễn Thái Đạo, Phó Chủ tịch UBBD xã Phước Dinh nhận xét: “Anh Nguyễn Văn Châu là nông dân đầu tiên áp dụng hiệu quả mô hình nuôi ốc hương có mái che đem lại thu nhập cao, tạo việc làm thường xuyên cho 30- 40 lao động. Ốc hương là loài nuôi mới phù hợp với điều kiện tự nhiên địa phương cho thu nhập cao đang được bà con mở rộng diện tích. Tính riêng năm 2016, nông dân Phước Dinh thả nuôi 52 ha ốc hương, sản lượng ước đạt trên 1.350 tấn. Chính quyền địa phương đề nghị Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tiến hành khảo sát hiệu quả mô hình nuôi ốc hương có mái che của gia đình anh Châu để phổ biến nhân rộng trên địa bàn tỉnh. Đồng thời quy hoạch vùng nuôi tâp trung, đánh giá tác động môi trường, hướng dẫn kỹ thuật giúp nông dân phát triển nghề nuôi ốc hương theo hướng an toàn, bền vững”.
Nguồn: Báo điện tử Ninh Thuận
 
THANH NIÊN VÀ NGHỀ NGHIỆP
 

Nghệ thuật làm việc qua điện thoại

    Trong công việc thời hiện đại, bạn thường phải dùng đến chiếc điện thoại như một công cụ làm việc hữu hiệu. Nếu không học cách sử dụng điện thoại, công cụ này có thể “giết chết” thời gian của bạn.

    Khi gọi điện thoại, hãy luôn biết rõ mình muốn nói gì. Có thể gạch đầu dòng trước những điều định nói và cần nói. Như thế bạn sẽ tiết kiệm được thời gian cho bạn và cho cả người nghe. 
    Điều chỉnh cách nói chuyện cho thích hợp với từng đối tượng. Những người bận rộn thường thích cách tiếp cận trực tiếp, nói ngắn gọn và hạn chế nói chuyện phiếm. Những người dễ hoà đồng thì thích nói chuyện thân mật hơn. 
    Hạn chế nói chuyện riêng. Nói chuyện phiếm thì vui đấy nhưng nó làm mất thời gian và gây khó chịu cho người bên kia đầu dây khi họ đang bận rộn. Bạn có thể nói chuyện qua loa về thời tiết, thời sự nhưng đừng lôi chuyện gia đình ra làm đề tài.
    Hãy trả lời thẳng câu hỏi của đối tác. Tránh ậm ừ dễ tạo sự không chuyên nghiệp. Nếu bạn không biết câu trả lời, hãy nói bạn sẽ gọi cho họ sau khi đã có đáp án chính xác. Nếu bạn đưa ra một phán đoán sai lầm cho người tin tưởng bạn, họ sẽ không bao giờ tin bạn nữa. 
    Cuối buổi nói chuyện, hãy xác nhận lại những điều đã trao đổi. Như thế cả hai có thể xem mình đã thống nhất với nhau được điều gì để có thể đưa ra cách giải quyết thích hợp. 
    Khi gọi điện thoại, hãy luôn nhớ những điều sau: 
- Là người chủ động gọi, nếu thực sự bạn cần họ.
- Đừng gọi quá sớm hay quá trễ. 
- Những cuộc gọi không quan trọng có thể để cho trợ lý hoặc thư ký lo. Những vấn đề quan trọng nên được chính bạn nói.
- Đừng gửi lời nhắn vào hộp thư thoại trả lời sẵn. Nếu họ đi vắng có thể gọi di động hoặc gọi lại sau.
- Đừng thúc giục người đối diện nhanh chóng đưa ra câu trả lời, đừng khiến họ ám ảnh với các cuộc gọi của bạn. Điện thoại rất tiện lợi nhưng nếu bạn lạm dụng nó, đối tác và khách hàng có thể cảm thấy đang bị đeo bám.
Khi nhận điện thoại, cần lưu ý những điểm sau: 
- Đừng đợi chuông reo quá 3 lần rồi mới nhấc máy. Nếu tình thế bắt buộc không thể nhấc ngay, hãy xin lỗi họ và nói lý do.
- Mọi người đều nên có trách nhiệm trả lời điện thoại. Nếu người chịu trách nhiệm trực điện thoại đi vắng, bạn hãy chủ động ra nghe và chuyển điện thoại nếu cần.
- Đừng trả lời điện thoại khi đang ăn. Người bên kia có thể nghe rõ tiếng nhai của bạn.
- Đừng nói quá to hoặc quá nhỏ. 
Nguồn: VN8x dantricom.vn
 
THANH NIÊN VÀ PHÁP LUẬT

    Trong tài liệu sinh hoạt chi đoàn tháng 4/2018, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 Quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm, nội dung cụ thể như sau:
    Chương I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
    Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
    Nghị định này quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động và Luật Việc làm về chính sách việc làm công, hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên và Quỹ quốc gia về việc làm.
    Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Người lao động theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 của Luật Việc làm.
2. Người sử dụng lao động theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 của Bộ luật Lao động.
3. Cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có liên quan đến các nội dung quy định tại Điều 1 Nghị định này.
    Chương II: CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CÔNG
    Mục 1. LỰA CHỌN VÀ THÔNG BÁO DỰ ÁN, HOẠT ĐỘNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CÔNG
    Điều 3. Lựa chọn dự án, hoạt động thực hiện chính sách việc làm công
1. Các dự án, hoạt động theo quy định tại Khoản 1 Điều 18 Luật Việc làm được lựa chọn để thực hiện chính sách việc làm công bao gồm:
a) Dự án, hoạt động bảo vệ, quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên đất, nước, rừng; phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu;
b) Dự án, hoạt động bảo tồn, phát triển văn hóa và du lịch;
c) Dự án, hoạt động xây dựng, cải tạo và bảo dưỡng: Đường giao thông, trường học, nhà trẻ, trạm y tế, chợ, công trình phục vụ nhu cầu về hoạt động văn hóa thể thao; công trình thủy lợi, tưới tiêu, đê điều; công trình cung cấp điện, nước sạch, vệ sinh môi trường;
d) Dự án, hoạt động phục vụ cộng đồng khác.
2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ; Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh); Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp huyện); Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) quyết định thực hiện chính sách việc làm công đối với các dự án, hoạt động theo quy định tại Khoản 1 Điều này.
Điều 4. Thông báo dự án, hoạt động thực hiện chính sách việc làm công
1. Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có dự án, hoạt động thực hiện chính sách việc làm công về phạm vi, nội dung công việc cần thực hiện; chất lượng, tiến độ công việc cần đạt được và nhu cầu sử dụng lao động tham gia thực hiện chính sách việc làm công.
2. Ủy ban nhân dân cấp xã niêm yết công khai tại trụ sở, các nơi sinh hoạt cộng đồng và thông báo trên các phương tiện truyền thông của cấp xã về các nội dung thông báo quy định tại Khoản 1 Điều này.
    Mục 2. THAM GIA CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CÔNG
    Điều 5. Đăng ký tham gia chính sách việc làm công
1. Người lao động có nhu cầu tham gia chính sách việc làm công đăng ký tham gia dự án, hoạt động quy định tại Điều 3 Nghị định này với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hợp pháp theo hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
2. Ủy ban nhân dân cấp xã lập danh sách người lao động có nhu cầu tham gia chính sách việc làm công; niêm yết công khai tại trụ sở, các nơi sinh hoạt cộng đồng và thông báo trên các phương tiện truyền thông của cấp xã.
    Điều 6. Lựa chọn người lao động tham gia chính sách việc làm công
Ủy ban nhân dân cấp xã phối hợp với nhà thầu (nếu có), các tổ chức chính trị - xã hội, đại diện cộng đồng dân cư hưởng lợi từ dự án, hoạt động thực hiện chính sách việc làm công lựa chọn người lao động tham gia chính sách việc làm công trong danh sách người lao động đăng ký tham gia theo thứ tự ưu tiên:
1. Các đối tượng quy định tại Khoản 2 Điều 19 Luật Việc làm.
2. Người lao động thuộc hộ gia đình hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu.
3. Người lao động cư trú hợp pháp tại địa phương nơi thực hiện dự án, hoạt động.
    Điều 7. Chế độ đối với người lao động tham gia chính sách việc làm công
1. Người sử dụng lao động có sử dụng lao động tham gia chính sách việc làm công phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động và bảo đảm các chế độ đối với người lao động theo quy định của pháp luật lao động.
2. Dự án, hoạt động thực hiện chính sách việc làm công có sự tham gia của cộng đồng theo quy định của pháp luật về đấu thầu thì Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn các chế độ đối với người lao động.
    Mục 3. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CÔNG
    Điều 8. Trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp
1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn, kiểm tra và báo cáo Chính phủ kết quả thực hiện chính sách việc làm công.
2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ chủ trì, hướng dẫn việc tổ chức thực hiện các dự án, hoạt động thực hiện chính sách việc làm công; kiểm tra và gửi kết quả thực hiện chính sách việc làm công đến Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
3. Ủy ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện các dự án, hoạt động thực hiện chính sách việc làm công trên địa bàn; kiểm tra và báo cáo kết quả thực hiện chính sách việc làm công theo hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
    Điều 9. Giám sát việc thực hiện chính sách việc làm công của cộng đồng
1. Cộng đồng dân cư giám sát việc sử dụng lao động và việc thực hiện các chế độ đối với người lao động tham gia chính sách việc làm công trên địa bàn.
2. Các tổ chức chính trị - xã hội tham gia giám sát việc sử dụng lao động và việc thực hiện các chế độ đối với người lao động tham gia chính sách việc làm công trên địa bàn.
    Chương III: HỖ TRỢ ĐƯA NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG
    Điều 10. Chính sách hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
    Người lao động là người dân tộc thiểu số; người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo hoặc hộ bị thu hồi đất nông nghiệp; thân nhân của người có công với cách mạng có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được hỗ trợ:
1. Hỗ trợ đào tạo nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết gồm:
a) Học phí đào tạo nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết;
b) Tiền ăn trong thời gian thực tế học;
c) Chi phí đi lại (01 lượt đi và về) từ nơi cư trú đến địa điểm đào tạo từ 15 km trở lên hoặc từ 10 km trở lên đối với người lao động cư trú hợp pháp tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
    Riêng người lao động thuộc các huyện nghèo được hỗ trợ thêm tiền ở và đồ dùng cá nhân thiết yếu.
2. Hỗ trợ chi phí làm thủ tục hộ chiếu, thị thực, khám sức khoẻ, lý lịch tư pháp trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo quy định của pháp luật.
3. Hỗ trợ giải quyết rủi ro trong thời gian làm việc ở nước ngoài theo quy định của pháp luật.
4. Hỗ trợ chi phí đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề trong trường hợp nước tiếp nhận yêu cầu.
5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn quy trình, thủ tục và mức hỗ trợ cụ thể đối với từng đối tượng.
    Điều 11. Hỗ trợ vay vốn đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
1. Người lao động thuộc hộ nghèo, hộ bị thu hồi đất nông nghiệp và người lao động là người dân tộc thiểu số được vay vốn đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng từ Ngân hàng chính sách xã hội theo quy định của pháp luật.
2. Người lao động thuộc hộ cận nghèo, người lao động là thân nhân của người có công với cách mạng được vay vốn đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng từ Quỹ quốc gia về việc làm theo quy định tại Mục 3 Chương V Nghị định này.
    Điều 12. Hỗ trợ phát triển thị trường lao động ngoài nước
1. Hỗ trợ phát triển thị trường lao động ngoài nước thông qua các hoạt động sau đây:
a) Nghiên cứu, khảo sát thị trường lao động ngoài nước;
b) Quảng bá thông tin về nguồn lao động Việt Nam;
c) Xúc tiến phát triển thị trường lao động ngoài nước.
2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn nội dung và mức hỗ trợ phát triển thị trường lao động ngoài nước.
    Điều 13. Kinh phí thực hiện
    Nguồn kinh phí để hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được bố trí từ ngân sách nhà nước. Riêng nguồn kinh phí hỗ trợ người lao động thuộc hộ bị thu hồi đất nông nghiệp thực hiện theo quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn.
    Chương IV: HỖ TRỢ TẠO VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN
    Mục 1. ĐÀO TẠO NGHỀ CHO THANH NIÊN HOÀN THÀNH NGHĨA VỤ QUÂN SỰ, NGHĨA VỤ CÔNG AN, THANH NIÊN TÌNH NGUYỆN
    Điều 14. Đối tượng hỗ trợ đào tạo nghề
    Thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an, thanh niên tình nguyện hoàn thành nhiệm vụ thực hiện chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội được hỗ trợ đào tạo nghề khi đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 15 Nghị định này.
    Điều 15. Điều kiện hỗ trợ đào tạo nghề
    Các đối tượng theo quy định tại Điều 14 Nghị định này được hỗ trợ đào tạo nghề khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Có nhu cầu đào tạo nghề trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; hoàn thành nhiệm vụ thực hiện chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội;
2. Chưa được hỗ trợ đào tạo nghề từ chính sách hỗ trợ đào tạo nghề khác có sử dụng nguồn kinh phí của ngân sách nhà nước kể từ ngày hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; hoàn thành nhiệm vụ thực hiện chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội.
    Điều 16. Nội dung và mức hỗ trợ đào tạo nghề
1. Các đối tượng theo quy định tại Điều 14 Nghị định này tham gia đào tạo nghề trình độ trung cấp, cao đẳng được hỗ trợ:
a) Miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập theo quy định của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp và các văn bản hướng dẫn;
b) Vay vốn để tham gia đào tạo nghề trình độ trung cấp, cao đẳng theo quy định của chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn.
2. Các đối tượng theo quy định tại Điều 14 Nghị định này tham gia đào tạo nghề trình độ sơ cấp được cấp thẻ đào tạo nghề có giá trị tối đa bằng 12 tháng tiền lương cơ sở tại thời điểm đào tạo nghề và có giá trị sử dụng trong 01 năm kể từ ngày cấp.
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an hướng dẫn thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho các đối tượng quy định tại Điều 14 Nghị định này.
    Điều 17. Kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề
    Nguồn kinh phí để hỗ trợ đào tạo nghề cho các đối tượng quy định tại Điều 14 Nghị định này thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
    Mục 2. HỖ TRỢ THANH NIÊN LẬP NGHIỆP, KHỞI SỰ DOANH NGHIỆP
    Điều 18. Hỗ trợ thanh niên lập nghiệp
1. Đối tượng hỗ trợ:
a) Học sinh các trường trung học phổ thông;
b) Thanh niên đang học tại cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp;
c) Thanh niên đã tốt nghiệp cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
2. Nội dung hỗ trợ:
a) Định hướng nghề nghiệp;
b) Cung cấp thông tin về việc làm, nghề nghiệp;
c) Đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng tìm việc và làm việc;
d) Tham gia chương trình thực tập làm việc tại doanh nghiệp, tổ chức;
đ) Cho vay ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm theo quy định của pháp luật.
3. Căn cứ tình hình kinh tế - xã hội từng thời kỳ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc hỗ trợ thanh niên lập nghiệp.
    Điều 19. Hỗ trợ thanh niên khởi sự doanh nghiệp
1. Đối tượng hỗ trợ:
a) Thanh niên có nhu cầu khởi sự doanh nghiệp;
b) Thanh niên đã khởi sự doanh nghiệp.
2. Nội dung hỗ trợ:
a) Cung cấp kiến thức về pháp luật, quản trị doanh nghiệp và các vấn đề có liên quan khởi sự doanh nghiệp;
b) Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khởi sự doanh nghiệp;
c) Cho vay ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm theo quy định của pháp luật.
3. Căn cứ tình hình kinh tế - xã hội từng thời kỳ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc hỗ trợ thanh niên khởi sự doanh nghiệp.
(còn tiếp)
 Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (www.moj.gov.vn)

BÀI HÁT THANH NIÊN
 
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn tháng 4/2018, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên lời bài hát “Bài ca Mười sáu tháng tư”
Bài ca Mười sáu tháng tư
Sáng tác: Phan Quốc Anh
 
Ta về đây chung vui ngày chiến thắng
Trời Phan Rang rực rỡ với muôn ngàn hoa
Ninh Thuận ơi! Tin vui bay khắp mọi nhà
Chiến thắng tưng bừng
Xin chào mười sáu tháng tư
Chào mười sáu tháng tư
Ta ca vang mừng chiến thắng
Vì Tổ quốc vì quê hương nào gắng công ta dựng xây
Nào cùng hát mừng chiến thắng
Mừng tự do mừng ấm no
Nào cùng ca bài ca xuân
Ta đón chào mười sáu tháng tư

ĐỊNH HƯỚNG SINH HOẠT CHI ĐOÀN
 
    1. Tổ chức cho đoàn viên, thanh niên (ĐVTN) ôn truyền thống lịch sử 43 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (có đề cương tuyên truyền riêng) qua các buổi sinh hoạt chuyên đề, tọa đàm, thi tìm hiểu về lịch sử Ngày miền Nam hoàn toàn thống nhất đất nước, các thành tựu phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh… của đất nước, địa phương đơn vị từ sau giải phóng đến nay.
    2. Giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là truyền thống đoàn kết, nhân ái, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động, dung cảm trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc; các giá trị lịch sử, văn hóa của khu di tích; những phong tục tập quán tốt đẹp của cộng đồng dân tộc Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước nhân ngày Giỗ tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch).
    3. Tổ chức cho đoàn viên thanh niên trong chi đoàn tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, thăm, tặng quà các gia đình chính sách, thương binh liệt sĩ, Mẹ Việt Nam anh hùng hoặc thăm viếng, chăm sóc, tu sửa nghĩa trang liệt sĩ, khu di tích tại địa phương nhân dịp kỷ niệm 43 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2018).
    4. Tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 05- CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. 

 
TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN THÁNG 5/2018

CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 128 NĂM NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH (19/05/1890 - 19/05/2018)

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH
HỒ CHÍ MINH


Những bài học cảm động về tấm gương đạo đức của Bác Hồ
trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Sinh thời, Bác Hồ thường căn dặn mọi người phải thực hành tiết kiệm; tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiền bạc; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, không xa xỉ, hoang phí, không bừa bãi, phô trương hình thức. Bác Hồ đã sống cả cuộc đời thanh bạch từ ăn, ở đến phương tiện sử dụng phục vụ công việc hàng ngày, để tiết kiệm thời gian, Bác dạy: “Từ Chủ tịch Chính phủ cho đến người chạy giấy, người quét dọn trong một cơ quan nhỏ, đều là những người ăn lương của dân, làm việc cho dân... làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ về sớm... Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta trong những giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân”.
Nhà ở của Bác chỉ là một ngôi nhà sàn gỗ lợp ngói, trên gác có hai phòng, mỗi phòng hơn 10m2, vậy mà Bác đề nghị để đồng chí Phạm Văn Đồng sử dụng một phòng, để khỏi lãng phí. Một Tổng biên tập nước ngoài được Bác tiếp tại nơi đó đã kể lại: “Chúng tôi được dẫn vào tầng dưới ngôi nhà sàn của Bác Hồ. Chúng tôi đợi Người ở đấy. Tôi còn kịp lướt nhìn mọi thứ được xếp đặt trong phòng khách của Người. Gọi là phòng khách của vị Nguyên thủ quốc gia mà thật vô cùng giản dị, có lẽ không khác những gian nhà của nông dân Việt
Nam mà tôi có dịp tới. Trong gian phòng này có lẽ chỉ có bộ bàn ghế mây được coi là nổi bật”.
Bữa ăn của Bác như bữa ăn của mọi nhà: Bát canh, quả cà, con cá kho, hoặc lát thịt kho. Bác luôn nghĩ đến người nghèo “lúc chúng ta nâng bát cơm ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước, cứ 10 ngày nhịn ăn 1 bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa 1 bơ) để cứu dân nghèo”.
Trong sinh hoạt đời thường, Bác Hồ còn chỉ thị cho những người phục vụ: Vá khăn mặt cho Bác, vá áo lót cho Bác, vá chiếu nằm cho Bác. Có lần, khi tất rách chưa kịp vá, anh em đưa đôi mới để Bác dùng. Bác cầm đôi tất xoay chỗ rách vào bên trong người Bác, rồi cười: Đấy có trông thấy rách nữa đâu...
Mùa đông, Bác Hồ có một cái áo bông của đồng bào biếu. Bác dùng nhiều năm, mền bông xẹp xuống không ấm nữa. Nhưng không ai dám nghĩ đến việc xin Bác bỏ mền bông đi, chỉ nghĩ đến việc thay vỏ ngoài. Vì dùng mãi vỏ áo đã đứt chỉ ở khuỷ tay và ở cổ. Bác bảo mạng nó lại. Nó rách ở vai thì Bác bảo vá vai, đến khi nó rách lần 2, đồng chí phục vụ xin cho thay vỏ ngoài, Bác bảo: Này chú ạ, Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nước mặc áo vá vai thế này là cái phúc của dân đấy, đừng bỏ cái phúc đó đi. Bác mặc bộ quần áo ka ki đã sờn cổ, sờn tay, xin được thay bộ khác, Bác bảo: “Nếu thi sang thì thua, thi tiết kiệm thì thắng”. Bác mặc như thế phù hợp với hoàn cảnh của đất nước, của dân không phải thay. Xưởng may X biếu Bác bộ quần áo ka ki mới; Bác nhận, nhưng rồi Bác lại gửi lại xưởng may để làm phần thưởng thi đua.
Bác tiết kiệm đến cái nhỏ như tờ giấy: “Giấy bút, vật liệu đều tốn tiền của Chính phủ, tức là của dân; ta cần phải tiết kiệm. Nếu một miếng giấy nhỏ đủ viết, thì chớ dùng một tờ to. Một cái phong bì có thể dùng hai ba lần”. Và Bác đã làm để mọi người bắt chước là hàng ngày các văn bản Bác đều viết ở mặt sau của bản tin Thông tấn xã Việt Nam; còn phong bì Bác đều dùng lại phong bì của các nơi gửi tới đến 2, 3 lần. Làm được những việc nhỏ thì sẽ thành cái to như Bác đã chỉ rõ: “Nơi nào cũng tiết kiệm một chút, thì trong một năm đỡ được hàng vạn tấn giấy, tức là hàng triệu đồng bạc. Nhờ tiết kiệm... mà lợi cho dân rất nhiều”. Bác Hồ thường nói rằng: “Người ta ai cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp, nhưng phải đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong lúc Nhân dân còn khó khăn, một người nào đó muốn sống hưởng ăn ngon, mặc đẹp thì không có đạo đức”.
Những điều cụ thể trên đây về cuộc sống giản dị, tiết kiệm của Bác. Mọi người chúng ta đều hiểu sâu sắc rằng: Bác Hồ sống khắc khổ, tiết kiệm, thanh bạch trong đời sống, chỉ vì Bác toàn tâm, toàn ý đấu tranh cho cuộc sống của toàn dân. Đời sống vật chất càng giản dị thì càng phù hợp với đời sống tâm hồn phong phú, với những tình cảm, những giá trị tinh thần cao đẹp nhất của Bác. Đó là cuộc sống thật sự văn minh mà Bác Hồ đã nêu gương sáng.
Thực hiện tốt lời dạy của Bác, mỗi người chúng ta cần cố gắng, nỗ lực hết mình để chăm lo hạnh phúc của Nhân dân, ra sức phấn đấu học tập, rèn luyện noi gương theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để thực sự là những người cán bộ, đảng viên chân chính, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự Nhân dân, xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của Nhân dân, như Di chúc của Bác Hồ kính yêu đã dạy.
Nguồn: Trang tin điện tử Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
 
DI TÍCH LỊCH SỬ TẠI THĂNG BÌNH
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn tháng 5/2018, chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn đoàn viên thanh niên, các tổ chức Đoàn về Di tích lịch sử Địa điểm Căn cứ Huyện ủy Thăng Bình
Là một huyện nằm giữa tỉnh Quảng Nam, thị trấn Hà Lam là trung tâm huyện lỵ, Thăng Bình ở tọa độ 15độ 30 phút đến 15 độ 59 phút vĩ độ Bắc và từ 108 độ 7 phút đến 108 độ 30phút kinh độ Đông. Phía Bắc giáp huyện Quế Sơn và Duy Xuyên, phía Nam giáp thành phố Tam kỳ và huyện Phú Ninh, phía đông giáp biển Thái Bình Dương, phía Tây giáp huyện Tiên Phước và huyện Hiệp Đức. Huyện Thăng Bình có 22 xã, thị trấn; có tổng diện tích đất đai là 384,75km2, xã có diện tích lớn nhất là Bình Định, xã có diện tích nhỏ nhất là Bình Nguyên:7,72km2. Đất đai ở Thăng Bình chia làm nhiều vùng khác nhau: vùng ven biển chủ yếu là đất cát trắng; vùng đồng bằng trung du bán sơn địa và miền núi rừng rậm rạp,đất đai khô cằn ,bạc màu hoặc bị đá ong hóa. Hiện nay diện tích gò đồ, núi trọc chiếm 2/5 diện tích đất đai của huyện.
Về thời tiết khí hậu, Thăng Bình có 2 mùa rõ rệt trong năm. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 năm trước đến tháng 2 năm sau, mùa khô bắt đầu từ tháng 2 đến tháng 8 nên nắng nóng và mưa lớn kéo dài thường xuyên gây nên hạn hán, bão lụt làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, sản xuất của nhân dân. Thăng Bình có hơn 25 km bờ biển chạy dọc qua các xã phía Đông của huyện với một dãy đất cát trắng mênh mông, sau lưng có núi Cao Ngạn và một số núi kéo dài cả huyện ở vùng cao, bao lấy bên trong là vùng đồng bằng trung du bán sơn địa và diện tích rừng, gò đồi.
Trước kia, Thăng Bình có nhiều sông suối, có nước chảy quanh năm từ các triền núi đổ về như sông Ly Ly, sông Trườn Giang...nhưng theo năm tháng, dòng sông đổi dòng ở một số đoạn nên về mùa nắng, nước ở các suối và sông Ly Ly trở thành nguồn nước lợ.
Về giao thông, ngoài đường biển, đường sông khá thuận lợi cho việc giao thông vận tải, Thăng Bình còn nhiều đường trên bộ. Đường Quốc lộ 1A và tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy xuyên địa phận huyện; đường Quốc lộ 14E bắt đầu từ Cây Cốc (Hà Lam) lên Việt An, Tân An đến Làng Hồi (Phước Sơn) giáp đường Hồ Chí Minh nối liền với các tỉnh Tây Nguyên; đường Thanh Niên chạy dọc ven biển. Nhiều tuyến đường liên huyện, liên xã, liên thôn chạy dọc khắp huyện là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
     Tổ tiên của người Thăng Bình, người Quảng Nam nguyên quán từ miền Bắc vào miền Nam mở mang bờ cõi đất nước nên truyền thống đấu tranh của người dân Thăng Bình cũng là truyền thống yêu nước của người Việt Nam. Trải qua các thời kỳ chống ngoại xâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc, người dân Thăng Bình đã tham gia chiến đấu kiên cường. Trên mảnh đất thân yêu này để lại những dấu ấn rực sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, nhất là trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược.
     Từ khi thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược nước ta vào cảng Đà Nẵng, biết bao thanh niên Thăng Bình đã dũng cảm chiến đấu dưới sự chỉ huy của tổng soái Nguyễn Tri Phương và nhiều tướng lĩnh khác. Khi Pháp đánh chiếm Kinh thành Huế, nhân dân Thăng Bình đã hưởng ứng phong trào Nghĩa hội- Cần vương, phong trào Duy Tân, các phong trào chống Pháp tích cực...gắn liền với các tên tuổi như: Tiểu La- Nguyễn Thành, Nguyễn Uýnh, Lê Cơ...
Sự ra đời của Đảng bộ huyện Thăng Bình:
     Sau khi Đảng bộ tỉnh Quảng Nam được thành lập (28-3-1930) phong trào đấu tranh của nhân dân Thăng Bình bắt đầu có bước chuyển biến tích cực hướng theo sự lãnh đạo của Đảng. Đồng chí Phạm Thân, Phó bí thư Tỉnh ủy được phân công phụ trách Thăng Bình đã tổ chức kết nạp đảng viên cho đồng chí Võ Duy Bình và đồng chí Võ Xưng; hai đồng chí được giao nhiệm vụ tuyên truyền, vận động và phát triển đảng, đánh dấu bước chuyển biến quan trọng của phong trào cách mạng trong huyện Thăng Bình dưới ngọn cờ Lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam mà trực tiếp là Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng nam.
     Cuối năm 1929 đầu năm 1930 phong trào công nhân trong nước phát triển mạnh, các cuộc bãi công nổ ra khắp nơi ở các đồn điền, xí nghiệp của thực dân Pháp. Ở Thăng Bình, đêm 01-5-1930 lần đầu tiên, lá cờ đỏ búa liềm được treo trên nóc nhà Lục Giác trước cổng Phủ đường, nhiều truyền đơn cách mạng xuất hiện ở ngã tư Hà Lam, Ngọc Phô...Sau sự kiện này địch tăng cường đàn áp,khủng bố. Phong trào cách mạng ở Quảng Nam chịu nhiều tổn thất, các cơ sở Đảng ở Thăng Bình bị vỡ, các đồng chí Võ Duy Bình, Võ Xưng...bị bắt.cơ quan Tỉnh ủy bị khám xét, phá hoại. Tuy nhiên với tinh thần, ý chí kiên cường bất khuất quyết vùng lên phá bỏ gông xiềng nô lệ, giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Nhân dân Thăng Bình đã cùng cả nước đứng lên đấu tranh giành chính quyền; đến đầu năm 1945 dấy lên cao trào tiền khởi nghĩa rộng khắp cả huyện và khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân (18-8-1945) thắng lợi. Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng và do đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng phải mở rộng toàn diện, đầu tháng 11-1945 huyện ủy lâm thời Thăng Bình được thành lập.
     Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng bộ huyện Thăng Bình tập trung lãnh đạo nhân dân xây dựng chính quyền cách mạng, ổn định tình hình chính trị, xã hội và tiếp tục kháng chiến chống thực dân Pháp. Vai trò lãnh đạo của Đảng được phát huy mạnh mẽ, Đảng bộ và quân dân Thăng Bình tuyệt đối tin tưởng vào Mặt trận Việt Minh, vào Đảng và Chính phủ, quyết tâm bảo vệ chính quyền vừa giành được.
     Từ năm 1954 đến năm 1959 là thời kỳ đen tối nhất của phong trào cách mạng tỉnh Quảng Nam nói chung và huyện Thăng Bình nói riêng. Bằng chính sách “tố cộng ”,”diệt cộng”, tàn bạo, bọn tay sai Ngô Đình Diệm đã tiến hành chém giết và khủng bố đẫm máu ở Hà Lam- chợ Được ( từ ngày 04-9-1945 đến 07-9-1954) với 43 người chết và nhiều người bị thương.
Bất chấp sự hà khắc tàn bạo của bọn Mỹ - Ngụy và tay sai, nhân dân Thăng Bình đã anh dũng chiến đấu, đập tan các cuộc càn quét, tiến công tiêu diệt địch giải phóng quê hương(26-3-1975) góp phần cùng cả nước đánh tan các cuộc hành quân của mỹ giành thắng lợi vào mùa xuân 1975 bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Căn cứ Huyện ủy Thăng Bình tại thôn Linh Cang, xã Bình Phú:
     Vị trí chiến lược của Căn cứ Huyện ủy Thăng Bình tại Linh Cang:
     Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời(02-9-1945) là một thắng lợi hết sức to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Năm 1947, khi thực dân Pháp đánh chiếm Hòa Vang, Điện bàn, Hội An, Duy Xuyên thì chiến trường Quảng Nam- Đà Nẵng lúc này hình thành hai vùng: vùng tự do và vùng tam chiếm. Thăng Bình được xem là địa bàn giáp ranh (phía Bắc giáp vùng tạm chiếm, phía Nam, phía Tây giáp vùng tự do). Với vị trí đặc thù đó, công tác thực hiện đường lối kháng chiến”Toàn dân, toàn diện, lâu dài” trên địa bàn Thăng Bình hết sức được chú trọng , Căn cứ Huyện ủy Thăng Bình đóng trên địa bàn thôn Linh Cang, xã Bình Phú được coi là Căn cứ an toàn của cả vùng Tây Thăng Bình- một hậu phương đối với chiến trường rộng lớn của tỉnh. Khắp nơi trên địa bàn xã Bình Phú, từ An Lý, Thăng Trường, Gia Hội đến vùng Đồng Linh, Phước Cang...xa xôi đều có đồng bào tản cư đến sinh sống.
     Thời gian này, thôn Linh Cang xã Bình Phú trở thành địa bàn quan trọng nối liền giữa chiến trường phía Đông Bắc và tây Nam của tỉnh và con đường xuyên qua vùng Đồng Linh- Phước Cang đến Tiên Phước trở thành huyết mạch quan trọng nối liền phía Bắc Thăng Bình với phía Nam Tiên Phước góp phần rất lớn trong việc chuyển quân, liên lạc, tiếp tế cho chiến trường. Năm 1952, Mặt trận tỉnh chủ trương xây dựng nhà thương của tỉnh tại thôn Đức An để tiếp nhận thương binh, bệnh binh của chiến trường cả tỉnh về an dưỡng và điều trị.
      Những sự kiện lịch sử liên quan tới di tích:
     Cuối năm 1963, Đại hội Đảng bộ huyện Thăng Bình lần thứ VII họp tại nhà ông Thoại xã Bình Phú( có hình ảnh). Đây là đại hội đầu tiên của Đảng bộ từ khi có hiệp định Giơ-ne-vơ. Đại hội quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát động quần chúng nổi dậy, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, củng cố, mở rộng vùng giải phóng.
Tháng 02-1964, cơ quan Huyện ủy và cán bộ Tỉnh ủy về đóng chân ở Linh Cang để hoạt động . Đây là điều kiện thuận lợi cơ bản của phong trào cách mạng Bình Phú trong việc tiếp thu tinh thần chỉ đạo của Đảng trong việc xây dựng phong trào và phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh. Nơi đây được coi là Căn cứ an toàn của Huyện ủy Thăng Bình, các cơ quan đóng tại đây gồm: Văn phòng Huyện ủy, Hội trường, bếp ăn, Huyện đội, Cơ quan Cơ yếu, Công Binh, Thông tin, Bệnh viện huyện và Bệnh viện Quân khu 40(năm 1965)...
     Thời gian đầu, các cơ quan thuộc Huyện ủy đóng tại các gia đình cơ sở cách mạng như: Nhà các ông Ba Lũy và ông Hoan, sau đó đóng tại nhà bà Giày sát chân đồi Đá mọc; thôn Đức An đóng tại nhà bà Mai, ông cả Khuê,ông Đông...); thôn Phước Hà...nhất là khi ác liệt, nơi làm việc của cơ quan huyện có lúc dời lên thôn Cao Ngạn. Cơ quan cơ yếu của Quân khu 5 đóng tại khu căn cứ (nhà ông Võ Hỷ còn gọi là ông Hiệu), Công binh, Thông tin...sau đó chuyển đến Hố Dâu; cơ quan Huyện đội đóng tại nhà các ông Trương Tự, bà Ban, ông Hiền; tỉnh đội đóng tại đồng Bàn Cờ.
     Mặc dù cơ quan Huyện ủy có sự di chuyển nơi làm việc tại nhiều nơi, nhưng tại địa điểm thôn Đồng Linh là nơi đóng lâu nhất của cơ quan Huyện ủy Thăng Bình và cũng tại đây Huyện ủy Thăng Bình đưa ra nhiều quyết định, chỉ thị quan trọng để kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến của quân và dân toàn huyện Thăng Bình đi đến ngày toàn thắng 30/4/1975
     Tháng 12/1964, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng
Nam lần thứ VI họp tại thôn Đồng Linh(Linh Cang), xã Bình Phú, huyện Thăng Bình. Đại hội bầu Ban Chấp Hành Đảng bộ Quảng Nam gồm 15 ủy viên, Ban Thường vụ gồm 5 ủy viên, do đồng chí Vũ Trọng Hoàng làm Bí thư, đồng chí Đào Đắc Trinh làm Phó bí thư. Ban thường vụ gồm các đồng chí : Vũ Ngọc Hoàng, Đào Đắc Trinh, Hoàng Minh Thăng, Hoàng Tuấn Nhã và Hoàng Nguyên Trường. Tỉnh ủy viên gồm các đồng chí: Lê Hà, Trần Kim Anh, Hồ Truyền, Trương Trịnh, Nguyễn Cúc, Phạm Xân Thâm, Hà Sang, Nguyễn Thành, Võ Quỳnh và Ngô Hiên.(Sdd lịch sử Đảng bộ Quảng Nam- Đà Nẵng  1930-1975, NXB CTQG, HN 2006, trang 458).
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ hai tỉnh triển khai thực hiện đồng thời với chủ trương của Khu ủy mở chiến dịch Xuân 1965 lấy tên “chiến dịch Nguyễn Văn Trỗi” trên chiến trường toàn Khu. Quảng
Nam là trọng điểm của chiến dịch này, do đó, Khu tăng cường cho Quảng nam một trung đoàn chủ lực. Theo kế hoạch, chiến dịch tiến công địch bằng sức mạnh tổng hợp vũ trang, chính trị và binh vận; được phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và quân dân du kích; giữa tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng tại chỗ; phối hợp giữa hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Đà.
Tháng 9-1967, địch tổ chức cuộc hành quân liên kết 112, huy động nhiều bộ binh, pháo binh, máy bay chiến đấu tham gia. Ở Bình Phú, địch dùng trực thăng HU1A và HU1B đổ quân xuống các cao điểm: đồi Đá Mọc, đồi Đá Núi, đồi 62... Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, phối hợp với bộ đội chủ lực đóng chân trên địa bàn, lực lượng du kích xã Bình Phú đã liên tục phản kích, đánh bại các cuộc hành quân, tiêu hao một số lượng lớn sinh lực địch thu nhiều vũ khí...
     Lệnh tiến công và nổi dậy mùa xuân Mậu Thân 1968, từ Căn cứ Linh Cang, Huyện ủy Thăng bình chỉ đạo lực lượng vũ trang các xã Bình Sa, Bình Hải, Bình Triều, Bình Tung, Bình Tú, bình Quế gồm 3.873 người tiến về phá công sở, diệt ác ôn.
     Với tinh thần anh dũng, mưu trí trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Đảng bộ và nhân dân Bình Phú đã được Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba (có hình kèm). Đó là tiền đề quan trọng để nhân dân Bình Phú cùng với nhân dân toàn miền
Nam tiếp tục đứng dậy đấu tranh giành thắng lợi toàn diện trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
     Đầu năm 1969, Nich Xơn chủ trương chuyển hướng chiến lược “Phi Mỹ hóa” của Giôn Xơn thành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, “Phi Mỹ hóa chiến tranh”, Căn cứ Huyện ủy Thăng bình tại thôn Linh Cang, xã Bình Phú được xác định là địa bàn chiến lược của huyện Thăng Bình nói riêng và chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng nói chung. Trong giai đoạn này, cũng là chiếc nôi cách mạng của chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng, che giấu các cơ quan lãnh đạo của Đảng, nơi tập kết của các lực lượng vũ trang. Vì vây, địch đã tăng cường về mọi mặt để nhằm bình định tình hình.
Đầu năm 1969, Đại hội Đảng bộ huyện Thăng Bình lần thứ VIII tổ chức tại Hố Lửa, Bình Phú. Cuối năm 1969, địch cắm 17 chốt, dồn dân vào 13 khu ấp. Vùng giải phóng phía Tây chỉ còn một ít dân, chủ yếu là nhân dân ở các thôn Đồng Linh, thôn Phước Cang, Phước Hà, Cao ngạn,  Nam Vinh Huy.
Tối ngày 13-3-1975, tại Căn cứ Huyện ủy Thăng Bình, mặt trận giải phóng Quảng nam đã tổ chức lễ xuất quân tiến về vùng Đông. Đồng chí Hoàng Minh Thắng, Bí thư Đảng ủy Mặt trận đã trao cờ quyết thắng cho đồng chí Hoàng Minh Năm( Năm Lựu) và cán bộ chiến sĩ vũ trang của huyện, của tỉnh tham gia cánh giải phóng vùng Đông Thăng Bình, Quảng
Nam. Ngay trong đêm 13-3-1975 đến sáng ngày 14-3-1975, lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với tiểu đoàn 72 và tiểu đoàn 11 bộ đội địa phương tỉnh tấn công tiêu diệt các chốt điểm: Đồi 59, Gia Hội, Gò Dài...ở Bình Phú, địch đã bị lực lượng du kích địa phương và lực lượng tiểu đoàn 72 kiên quyết chặn đánh, tiêu diệt một bộ phận, buộc địch co cụm lại và tìm đường rút chạy. Sau khi giải phóng hoàn toàn huyện lỵ và các xã vùng trung Thăng Bình. Sáng ngày 26-3-1975, trước khí thế tấn công dồn dập của ta, lực lượng ngụy quân, ngụy quyền ở Hà Lam bỏ chạy. Chiều ngày 26-3-1975 quân ta tiến vào tiếp quản quận lỵ,  giải phóng hoàn toàn huyện Thăng Bình.
Nguồn: Từ Cổng thông tin Điện tử Thăng Bình

THEO DÒNG LỊCH SỬ
 
Những ngày đáng nhớ trong tháng 5:
- Ngày 01/5/1886: Kỷ niệm Ngày quốc tế Lao động
- Ngày 07/5/1954: Kỷ niệm Ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ
- Ngày 09/5/1945: Kỷ niệm Ngày Chiến thắng chủ nghĩa Phát –xít
- Ngày 15/5/1941: Kỷ niệm Ngày Thành lập Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh
- Ngày 19/5/1890: Kỷ niệm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Ngày 19/5/1941: Kỷ niệm Ngày thành lập mặt trận Việt Minh

07/5/1954: Chiến thắng Điện Biên Phủ
Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ở phía Tây vùng rừng núi phía Bắc. Đây là một căn cứ quân sự rất thuận lợi. Thực dân Pháp đã lấy căn cứ này chiến lược cơ động.
Trong chiến dịch Thu Đông năm 1953 – 1954, lực lượng địch tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bao gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 3 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội xe vận tải có khoảng 200 chiếc và một phi đội không quân thường trực 14 chiếc. Số quân lính địch là 16.200 tên, chúng bố trí 49 cứ điểm thành 8 cụm, mỗi cụm là một hệ thống hoả lực nhiều tầng. 8 cụm cứ điểm chia làm 3 phân khu, phân khu trung tâm gồm 2/3 lực lương ở ngay giữa Mườn Thanh. Sau 5 ngày chiến đấu ta đã tiêu diệt gọn 2 cứ điểm kiên cố vào bậc nhất là Him Lam va Độc Lập, sau đó làm tan rã thêm 1 tiểu đoàn địch và tiêu diệt tiểu đoàn Bản Kéo, ta diệt và bắt sống 2.000 tên địch, 26 máy bay bị phá huỷ, mở thông cửa vào trung tâm tập đoàn cứ điểm, uy hiếp sân bay Mường Thanh.
 17h30’ ngày 30/4/1954, ta mở đợt tấn công thứ 2. Cuộc chiến trên đồi A1 diễn ra hết sức gay go, ác liệt. Hai bên giằng co từng tất đất. Đến ngày 4/4 mỗi bên chiếm giữ 1 nửa đồi A1.
Đánh vào khu Đông ta diệt 2.500 tên địch, chiếm lĩnh phần lớn các cao điểm. Quân đội viễn chinh Pháp đã tập trung hầu hết máy bay chiến đấu, máy bay vận tải ở Đông Dương cho mặt trận. Đế quốc Mỹ chi viện cho thực dân Pháp gần 100 máy bay oanh tạc chiến đấu và gần 50 máy bay vận tải đồng thời tổ chức diễn tập “đổ bộ ào ạt vào Đông Dương”.
 Đêm 01/5/1954 ta mở đợt tấn công thứ 3, quân ta đánh chiếm các cứ điểm còn lại phía Đông và phía Tây, bẻ gãy cuộc phản kích của địch. Đêm 03/5/1954, bộ đội ta chỉ cách sở chỉ huy của địch 300m.
17h30’ ngày 07/5/1954 , những trận pháo kích của bộ đội ta nhắm thẳng vào sở chỉ huy địch. Tướng Đờ-cat-tơ-ri và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm của địch bị bắt sống. Gần 1 vạn quân địch nhảy ra khỏi hầm xin hàng. Đêm đó ta tấn công bắt sống toàn bộ quân địch ở phân khu
Nam.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu cực kỳ anh dũng, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ta tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi và phá huỷ 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí, kho xăng, đạn dược, quân trang quân dụng.
Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi 9 năm kháng chiến chống Pháp xâm lược. “Đã được ghi vào lịch sử như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa ở thế kỷ 20 và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc” (Lê Duẩn).

15/5/1941: Ngày thành lập Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh

Từ năm 1925, sau khi sáng lập ra Việt Nam Thanh Niên cách mạng đồng chí hội - tiền thân của Đảng, Bác Hồ đã chỉ thị về nước, lựa chọn một số thanh niên ưu tú đưa ra nước ngoài đào tạo. Trong số 8 thanh thiếu niên lúc đó được Bác Hồ đích thân dạy dỗ có Lý Tự Trọng. Sau này anh đã hi sinh vì sự nghiệp cách mạng. Khi sáng lập ra tổ chức Đoàn, Đảng đã giao trách nhiệm lịch sử cho Đoàn trực tiếp phụ trách chỉ đạo các tổ chức thiếu niên, nhi đồng.
Nghị quyết đại hội Đảng Cộng Sản Đông Dương lần I (Tháng 01/1935) ghi rõ: “Đoàn phụ trách tổ chức Hồng nhi đoàn, chỗ nào có chi bộ, Đoàn phải lập ra Hồng nhi đoàn, những đoàn viên dưới 16 tuổi nhất luận phải đưa qua Hồng nhi đoàn”.
Ngày 08/02/1941 sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Bác Hồ đã về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Tháng 5/1941 hội nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ 8 đã họp và ra nghị quyết quan trọng đến vận mệnh nước nhà. Hội nghị đã chủ trương thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh bao gồm nhiều tổ chức yêu nước.
Ngày 15/5/1942, theo chỉ đạo của Đảng, tổ chức Đội Thiếu Niên Tiền Phong và Đội Nhi Đồng cứu quốc đã được thành lập tại vùng Pắc Pó (Cao Bằng) do Đoàn Thanh Niên Cứu Quốc (nay là Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh) trực tiếp phụ trách. Ngày 15/5/1941 đã được ban chấp hành Trung Ương Đảng đồng ý lấy ngày chính thức thành lập Đội.
Từ ngày thành lập đến nay, Đội đã qua nhiều lần đổi tên. Sự kiện đổi tên có ý nghĩa nhất là sau khi Chủ Tịch Hồ Chí Minh qua đời, thiếu nhi cả nước, ban chấp hành Trung Ương Đảng trong phiên họp ngày 30/1/1970 đã cho phép Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên được mang tên Bác.
19/5/1890: Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí danh khác (19/5/1890 - 02/9/1969), là lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc; người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc thế kỉ 20; danh nhân văn hoá thế giới. Quê Người ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người sinh ra trong gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên trong thời kì phong trào cứu nước sôi nổi và học trường Quốc học Huế, rồi làm giáo viên tiểu học.
Tháng 6/1911, Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp tàu buôn đô đốc Latusơ Tơrêvin (Latouche Tréville) của Pháp, rời Việt Nam tìm đường cứu nước, qua Pháp, Hoa Kì, Anh; cuối 1917, trở lại Pháp; gia nhập Đảng Xã hội Pháp (1919). Thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, với tên Nguyễn Ái Quốc, gửi đến Hội nghị Vecxay (Versailles) bản Yêu sách đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam (1919). Năm 1920, tại Đại hội Tua (
Tours) của Đảng Xã hội Pháp, bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Tham gia thành lập Hội Liên hiệp Thuộc địa (1921); xuất bản báo “Le Paria” “Người cùng khổ” ở Pháp (1922). Năm 1923, được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, tham dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản; cán bộ Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Năm 1925, tại Trung Quốc, tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức; thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu với tổ chức nòng cốt là Cộng sản đoàn, đào tạo cán bộ và truyền bá chủ nghĩa Mac - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; xuất bản tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), báo “Thanh niên” (1926), “Đường kách mệnh”(1927).
Đầu 1930, chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt
Nam, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, quyết định chính cương, điều lệ, sách lược vắn tắt của Đảng. Tháng 6.1931, bị đế quốc Anh bắt giam tại Hồng Kông (Hong Kong), được trả lại tự do (1933). Mùa xuân 1934, sang Liên Xô, vào học Trường Đại học Lênin, rồi làm nghiên cứu sinh ở Viện Nghiên cứu các vấn đề Dân tộc và Thuộc địa của Quốc tế Cộng sản tại Matxcơva. Năm 1935, tham gia Đại hội VII Quốc tế cộng sản với tư cách đại biểu tư vấn. Tháng 9.1938, rời Viện Nghiên cứu các vấn đề Dân tộc và Thuộc địa để về nước.
Ngày 28/1/1941, Hồ Chí Minh về Cao Bằng; chủ trì Hội nghị VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (5/1941) - hội nghị quyết định đường lối giải phóng dân tộc Việt Nam, thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh (tức Mặt trận Việt Minh). Năm 1942, bị chính quyền của Tưởng Giới Thạch bắt giam ở nhiều nhà tù của tỉnh Quảng Tây; trong hoàn cảnh đó, Hồ Chí Minh đã viết tập thơ “Nhật kí trong tù”. Lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (12/1944), xây dựng căn cứ địa Việt Bắc. Chủ trì Hội nghị toàn quốc của Đảng (13 – 15/8/1945) và Đại hội Quốc dân Tân Trào (16 – 17/8/1945) tại Sơn Dương, Tuyên Quang, quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước; được Đại hội Quốc dân bầu làm chủ tịch Uỷ ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam (tức Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà).
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Đại biểu Quốc hội khoá I, II, III và được Quốc hội liên tục bầu làm chủ tịch nước (3/1946 – 9/1969). Từ 2/1951 đến 9/1969, chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam (khoá II, III).
Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp, Kháng chiến chống Mĩ cứu nước và sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Các tác phẩm, các bài viết được in thành bộ sách “Hồ Chí Minh toàn tập” (gồm 12 tập). Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Cuộc đời Hồ Chí Minh là tấm gương chói lọi về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, về tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, lòng yêu dân thắm thiết, gắn bó với nhân dân; về tinh thần đoàn kết, về đạo đức giản dị, khiêm tốn, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Hồ Chí Minh là nhà cách mạng, nhà tư tưởng vĩ đại của dân tộc Việt
Nam; là một vĩ nhân được UNESCO phong danh hiệu “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn”. Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta một di sản vô cùng quý báu. Đó là “Thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc. Đó là kỉ nguyên độc lập tự do của Tổ quốc, kỉ nguyên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ Tịch, người Anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta” (Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng). Hồ Chí Minh sống mãi trong sự nghiệp của dân tộc ta./.
Nguồn: lichsuvietnam.vn
 
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH MỚI
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn tháng 5/2018, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên, thanh niên, các tổ chức Đoàn Nghị định số140/2017/NĐ-CP, ngày 05/12/2017 của Chính phủ  về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ.
Nghị định này quy định về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ làm việc tại các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội từ trung ương đến cấp huyện; các đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang.
Nghị định quy định cụ thể từng đối tượng, tiêu chuẩn áp dụng chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ. Cụ thể, sinh viên tốt nghiệp đại học loại xuất sắc tại cơ sở giáo dục đại học ở trong nước hoặc nước ngoài được công nhận tương đương về văn bằng, chứng chỉ theo quy định của pháp luật có kết quả học tập và rèn luyện xuất sắc các năm học của bậc đại học, trong độ tuổi quy định tại Điều 1 Luật thanh niên tính đến thời điểm nộp hồ sơ dự tuyển và đáp ứng một trong các tiêu chuẩn sau:
1- Đạt giải ba cá nhân trở lên tại một trong các kỳ thi lựa chọn học sinh giỏi cấp tỉnh, đạt giải khuyến khích trở lên trong các kỳ thi lựa chọn học sinh giỏi cấp quốc gia hoặc Bằng khen trở lên trong các kỳ thi lựa chọn học sinh giỏi quốc tế thuộc một trong các môn khoa học tự nhiên (toán, vật lý, hóa học, sinh học, tin học) và khoa học xã hội (ngữ văn, lịch sử, địa lý, ngoại ngữ) trong thời gian học ở cấp trung học phổ thông;
2- Đạt giải ba cá nhân trở lên tại cuộc thi khoa học - kỹ thuật cấp quốc gia hoặc quốc tế trong thời gian học ở cấp trung học phổ thông hoặc bậc đại học;
3- Đạt giải ba cá nhân trở lên tại cuộc thi Ô-lim-pích thuộc một trong các môn toán, vật lý, hóa học, cơ học, tin học hoặc các chuyên ngành khác trong thời gian học ở bậc đại học được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận.
Đối với người có trình độ thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa cấp I, bác sĩ nội trú, dược sĩ chuyên khoa cấp I chuyên ngành y học, dược học trong độ tuổi quy định tại Điều 1 Luật thanh niên tính đến thời điểm nộp hồ sơ dự tuyển và đáp ứng đủ các tiêu chuẩn sau:
1- Đạt tiêu chuẩn quy định tại điểm a hoặc điểm b hoặc điểm c khoản 1 Điều này;
2- Tốt nghiệp đại học loại khá trở lên và có chuyên ngành đào tạo sau đại học cùng ngành đào tạo ở bậc đại học.
Còn người có trình độ tiến sĩ, bác sĩ chuyên khoa cấp II, dược sĩ chuyên khoa cấp II chuyên ngành y học, dược học trong độ tuổi theo quy định tại Điều 23 Nghị định số 40/2014/NĐ-CP ngày 12/5/2014 của Chính phủ quy định việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ tính đến thời điểm nộp hồ sơ dự tuyển và đáp ứng đủ các tiêu chuẩn quy định như người có trình độ thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa cấp I, bác sĩ nội trú, dược sĩ chuyên khoa cấp I chuyên ngành y học, dược học ở trên.Tập sự vẫn được hưởng 100% lương và phụ cấp tăng thêm
Nghị định quy định rõ, sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ sau khi được tuyển dụng phải thực hiện chế độ tập sự trong thời gian ít nhất là 03 tháng và không quá 12 tháng, trừ trường hợp đã có thời gian từ đủ 12 tháng trở lên thực hiện chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu của vị trí được tuyển dụng.
Trong thời gian tập sự sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ được hưởng 100% mức lương và phụ cấp tăng thêm quy định tại Điều 11 Nghị định này.
Sinh viên tốt nghiệp xuất sắc được bổ nhiệm ngạch chuyên viên và tương đương, xếp bậc 1, hệ số lương 2,34; cán bộ khoa học trẻ có trình độ thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa cấp I, bác sĩ nội trú, dược sĩ chuyên khoa cấp I được bổ nhiệm ngạch chuyên viên và tương đương, xếp bậc 2, hệ số lương 2,67; cán bộ khoa học trẻ có trình độ tiến sĩ, bác sĩ chuyên khoa cấp II, dược sĩ chuyên khoa cấp II được bổ nhiệm ngạch chuyên viên và tương đương, xếp bậc 3, hệ số lương 3,00. Đồng thời, được hưởng phụ cấp tăng thêm bằng 100% mức lương theo hệ số lương hiện hưởng. Phụ cấp tăng thêm không dùng để tính đóng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp (đối với viên chức). Thời gian hưởng phụ cấp tăng thêm không quá 05 năm kể từ ngày có quyết định tuyển dụng.
Ngoài khoản phụ cấp tăng thêm quy định tại khoản 1 Điều này còn được hưởng các khoản phụ cấp lương theo quy định của pháp luật hiện hành đối với khu vực, ngành, lĩnh vực đặc thù (nếu có).
Nghị định cũng nêu rõ, trong thời gian 03 năm kể từ ngày được tuyển dụng nếu sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ có 02 năm liên tiếp hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực hoặc có 02 năm liên tiếp, trong đó 01 năm hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực và 01 năm không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền bố trí công tác khác và thôi hưởng phụ cấp tăng thêm quy định tại Nghị định này. Trường hợp có 02 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết thôi việc hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc.
Tải toàn bộ Nghị định tại đây http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanbanclass_id=1&_page=&mode=detail&document_id=192164
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Chính phủ
SỔ TAY NGHIỆP VỤ
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn tháng 5/2018, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên, tổ chức Đoàn Kỹ năng khám phá bản thân:
Việt Nam có một loại dừa rất đặt biệt tên là dừa sáp, nó chỉ có thể cho ra loại dừa này nếu sống tại khu vực Cầu Kè (tỉnh Trà Vinh) và không thể cho ra loại quả sáp đó  nếu mọc trên những vùng đất khác. Ai trong đời cũng có ước mơ, nhưng ước mơ ấy chỉ là hạt giống. Muốn nó đâm mầm nảy nở, bạn phải tìm ra mảnh đất phù hợp với nó. Để làm được điều đó, bạn phải hiểu mình là “loại dừa nào”, để biết mảnh đất sống của mình là ở đâu. Nếu không, bạn sẽ loay hoay mãi giữa trăm phương nghìn nẻo của cuộc đời này.
Một đầu bếp nổi tiếng trên chương trình tivi đã bảo rằng, để có một món ăn ngon, bạn phải nêm nếm trong quá trình chế biến. Nếu món ăn thiếu đậm đà, ta nên thêm ít muối, nếu món ăn thừa ngọt, ta nên tránh thêm đường. Hiểu rằng mình đang thiếu gì, thừa gì, sẽ giúp bạn hoàn thiện bản thân mình. Nếu không, thêm vào cái mình đã dư trong khi điều mình thiếu vẫn hoài khiếm khuyết. Muốn bù khuyết, phát huy ưu, phát triển bản thân, trước tiên bạn phải hiểu về chính mình.
5 chiếc dao để “mổ xẻ” bản thân?
Cách 1: “Soi gương”
Mỗi người xung quanh là một chiếc gương để bạn tự soi vào. So sánh với những người khách là một cách để bạn nhận ra mình đang cao hay thấp, trắng hay đen, giỏi chỗ nào và dở chỗ nào.
Cách 2: Lắng nghe
Rất nhiều những đặc điểm mà khi bạn bộc lộ, mọi người sẽ nhận thấy nó. Do đó, những lời nhận xét từ bố mẹ, thầy cô và bè bạn là nguồn thông tin tham khảo đắt giá để bạn hiểu chính mình hơn.
Cách 3: Nội quan (tự quan sát bên trong)
Nhà trường có thể dạy bạn nhiều thứ bên ngoài như Toán, Sinh, Vật lý, Lịch sử... nhưng lại không có môn học nào để bạn tìm hiểu về chính mình. Khó khi nào một anh chàng thanh niên, một bạn tuổi teen lại chịu ngồi im hàng giờ để suy nghĩ về mình, đó chính là khuyết điểm lớn của tuổi trẻ. Hãy dành thời gian để trả lời những câu hỏi sau, bạn có thể mất vài phút hoặc vài giờ cho một câu hỏi. Tuy nhiên đừng nản chí, cứ xem đó là một bài thi tốt nghiệp cho môn “Khám phá bản thân” mà điểm của nó sẽ ghi lên “Giấy chứng nhận làm người” của mình.
Hãy kể ra ít nhất 60 điểm mạnh của bạn.
+ 20 đặc điểm về hình dáng bên ngoài mà bạn cho là đẹp (đừng nghĩ rằng 20 là quá nhiều nhé, chính những đặc điểm càng về sau lại là những điểm mà bạn chưa bao giờ nghĩ tới. Nếu có thể, hãy vượt trên cái mốc 20 này, bạn sẽ thấy thêm những điểm mà có thể chưa ai nhìn thấy)
+ 20 điểm tính cách khiến cho người khác yêu thích bạn
+ 20 điểm khả năng/sở trường của bạn
Hãy kể ra ít nhất 60 điểm hạn chế của bạn.
+ 20 đặc điểm về hình dáng bên ngoài mà bạn cho là xấu
+ 20 điểm tính cách khiến cho người khác ghét bạn
+ 20 khả năng/sở trường mà bạn rất kém
- Hãy kể ra 30 điều bạn thích và 30 điều bạn ghét
- 10 hoàn cảnh khiến bạn tự tin và 10 hoàn cảnh làm cho bạn sợ hãi
- Bạn muốn trở thành một người như thế nào? (về nghề nghiệp, gia đình, con cái, thu nhập, lối sống, bạn bè)
- Bạn hoàn toàn có thể tự đặt ra thêm những câu hỏi có ý nghĩa với mình và hãy tự hoàn thành chúng.
Cách 4. Thực hiện các trắc nghiệm tâm lý
Mỗi bài trắc nghiệm tâm lý có thể xác định một nét tính cách của bạn hay một khả năng nào đó mà bạn đang có. Hãy gặp các chuyên viên tâm lý để có những trắc nghiệm này. Cẩn thận khi sử dụng các trắc nghiệm vui trên báo hoặc internet vì chúng chỉ mang tính chất giải trí.
Cách 5. Phương pháp hiệu quả nhất : “Bung” mình trong các hoạt động
Th.Tr (sinh viên năm nhất) bất ngờ khám phá ra rằng mình nấu ăn khá tốt khi đăng kí một lớp học nấu ăn ở nhà văn hóa. H.C (học sinh lớp 12) rất vui sướng khi nhận ra rằng mình cũng có khiếu ăn nói trước công chúng sau một lần “liều mình” làm MC cho chương trình văn nghệ của lớp. K.D (học sinh lớp 10) nhận ra khả năng viết lách của mình “hơi bị được” khi chị biên tập nức nở khen trong một lần thử viết bài cộng tác gửi về cho báo.
Khi tham gia vào một hoạt động, bạn sẽ bung khả năng và tính cách tương ứng với hoạt động đó. Vì vậy, càng thử thách mình qua nhiều hoạt động khác nhau, các que diêm lần lượt được thử lửa và bạn sẽ khám phá ra những khả năng tiềm ẩn của mình. Xem các bài viết hay để học kỹ năng giao tiếp hiệu quả.
Hãy xem, có biết bao người đã xây dựng nên tên tuổi nhờ một lần tình cờ nào đó phát hiện ra khả năng tiềm ẩn. Tình cờ “hát chơi” trong một show chụp hình quảng cáo mà Noo Phước Thịnh đã được anh Tuấn Khanh phát hiện và Noo bước ngoặt sang nghề ca sĩ, nhờ “làm thêm”  bằng công việc phụ bếp cho một nhà hàng tại Hong Kong năm 13 tuổi mà ẩm thực thế giới có Yan Can Cook ngày nay... Cũng nhờ những lần tình cờ tương tự như thế mà biết bao doanh nhân, nhà giáo, nhà khoa học, chính trị gia, diễn giả, chuyên viên... đã phát hiện ra khả năng của mình và “bén duyên với nghề”.
Bài tập của bạn: Hãy liệt kê tất cả những hoạt động nào bạn có thể tham gia:
+ Ở trường? Tại nhà?
+ Ngoài xã hội ? (các nhà văn hóa, trung tâm kỹ năng sống, các lớp năng khiếu, các câu lạc bộ, những tổ chức đoàn thể...)
Đừng từ chối những cơ hội để bạn thử sức mình như: những cuộc thi trong lớp, những hoạt động ngoại khóa trong trường, một cuộc thi trên báo, một mùa hè đi làm tình nguyện... Tham gia càng nhiều hoạt động, bạn sẽ càng hiểu mình hơn.
Hãy tưởng tượng bản thân bạn là một hộp diêm với các que diêm bên trong. Làm sao để biết mình có những que nào và que nào cháy tốt nhất? Hãy chui ra khỏi vỏ ốc của mình và hoạt động để cọ xát chúng, bạn sẽ biết ngay thôi!

MÔ HÌNH- KINH NGHIỆM

Anh Hồ Văn Vàng trồng nho hữu cơ trên vùng đất khô cằn

Nung nấu ý định khởi nghiệp, cộng với tinh thần chịu khó tìm hiểu, học hỏi và áp dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật vào sản xuất, anh Hồ Văn Vàng ở thôn Phú Thạnh (xã Mỹ Sơn, Ninh Sơn) đã có hướng đi thành công với mô hình trồng nho hữu cơ trên vùng đất khô cằn.

Là người gắn bó với cây nho và trồng nhiều vụ đạt hiệu quả cao ở vùng nho Thành Sơn, xã Xuân Hải (Ninh Hải), nhưng anh Hồ Văn Vàng vẫn luôn trăn trở vì sản xuất của bà con trồng nho ở đây còn canh tác theo lối truyền thống, phụ thuộc nhiều vào phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, dẫn đến hiện tượng thoái hóa đất, giống làm ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng sản phẩm nên khó cạnh tranh trên thị trường. Vì thế, sau nhiều năm ấp ủ ý định khởi nghiệp sản xuất nông nghiệp sạch, anh nhận thấy vùng đất mới Mỹ Sơn tuy khô cằn nhưng phù hợp để phát triển cây nho theo hướng cánh đồng lớn. Vì vậy, anh Vàng đã quyết định đầu tư 3 tỷ đồng sang nhượng đất, đào ao tích nước, lắp đặt vườn ươm và hệ thống tưới nước tiết kiệm để trồng nho theo hướng sản xuất nông nghiệp an toàn và thân thiện với môi trường. Sau 2 năm cần cù, chịu khó tìm hiểu, học hỏi và áp dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật vào sản xuất, đến nay anh đã bước đầu thành công với mô hình trồng nho hữu cơ trên vùng đất khô cằn.
Đưa chúng tôi tham quan trang trại nho có diện tích 8 ha được đầu tư quy mô hiện đại, anh Vàng cho biết: Vùng đất Mỹ Sơn này khô cằn, thường xuyên thiếu nước, để cây nho phát triển được thì điều kiện đầu tiên là phải giữ độ ẩm cho đất. Nên trong quá trình canh tác cây nho là không làm sạch cỏ dưới gốc mà đợi cỏ lên cao rồi xới đất vun vào gốc để giữ độ ẩm, độ xốp cho đất và tránh rửa trôi chất mùn ở những vùng đồi núi; hạn chế sử dụng phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật làm ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của cây. Đặc biệt, khi nho kết trái không nên để chùm nho chặt quá, mà tỉa bớt những quả nho không đạt chất lượng, tạo khoảng trống cho trái nho phát triển, như vậy nho trái to, đạt năng suất và chất lượng. Với cách làm này, chỉ cần chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật sản xuất nho an toàn và thân thiện với môi trường thì cây nho phát triển rất tốt, đạt năng suất và chất lượng, giá trị kinh tế sẽ cao hơn so với trồng nho ở những nơi khác.
Vụ nho đầu tiên, với diện tích 4 sào trồng nho xanh NH-0148 làm theo hướng nông sản sạch, cây nho phát triển tốt và cho năng suất ổn định, chất lượng trái đồng đều, anh thu được trên 1,5 tấn nho. Với giá bán hiện nay 60.000 đồng/kg (cao gấp 2 lần so với trái nho trồng ở các vùng khác) và sản phẩm được bao tiêu tại các cửa hàng nông sản sạch tại TP. Hồ Chí Minh. Với hiệu quả bước đầu, anh Vàng tiếp tục mở rộng diện tích 4 ha trồng 3 loại nho giống NH-0148, NH 01-154 và nho rượu. Hiện nay, hầu hết diện tích nho đều sinh trưởng ổn định. Anh còn dự kiến đầu tư mô hình sản xuất nho sạch kết hợp với tham quan du lịch nhằm nâng cao giá trị cho cánh đồng nho.
Thành công bước đầu từ mô hình trồng nho hữu cơ theo hướng sản xuất nông nghiệp an toàn và thân thiện với môi trường của anh Hồ Văn Vàng không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cho gia đình mà còn góp phần thay đổi suy nghĩ và cách làm của những nông hộ xung quanh về sản xuất nông sản sạch. Đồng thời, tạo tiền đề để anh Vàng tiếp tục đầu tư hướng đến xây dựng cánh đồng lớn trồng nho theo hướng sản xuất nông nghiệp an toàn và thân thiện với môi trường.
Nguồn: Báo điện tử Ninh Thuận

THANH NIÊN VÀ NGHỀ NGHIỆP
Làm thế nào để có kỳ thực tập hiệu quả?
Làm thế nào để hoàn thành tốt kỳ thực tập, học hỏi được nhiều kiến thức, kỹ năng trong môi trường mới... là băn khoăn của nhiều bạn trẻ trước ngưỡng cửa tốt nghiệp, ra trường.
Bà Nguyễn Hoàng Oanh, Giám đốc Công ty TNHH một thành viên xây dựng kỹ thuật Thành Trung Q.12 (TP.HCM), nơi đang nhận 5 sinh viên thực tập thuộc khối ngành tài chính, kế toán cho biết: “Tôi nghĩ các bạn sinh viên đừng xem nhẹ kỳ thực tập. Đừng vì mối quan hệ, quen biết để vào được nơi thực tập rồi lơ là về sau mà bạn phải thật sự cố gắng, nỗ lực thì mới mong nhận lại kết quả tốt”.
`Cũng theo bà Hoàng Oanh, sinh viên hiện nay có xu thế ỉ lại vào mối quan hệ từ cha mẹ, người thân, từ đó trở nên quá đề cao bản thân mình. “Khi đi thực tập ngày đầu tiên các bạn nên vào sớm hơn lịch làm việc tại một cơ quan, đơn vị nào đó. Và chào hỏi, lễ phép là điều cần thiết. Bên cạnh đó, bạn nên cầu thị và thiện chí với mọi người xung quanh kể cả bảo vệ hay lao công của cơ quan đó, vì qua đó cấp trên sẽ đánh giá tốt về bạn”, bà Hoàng Oanh chia sẻ.
Thực tập nhằm mục đích giúp chúng ta học hỏi kinh nghiệm từ thực tiễn, cho nên ngoài chuẩn bị tâm thế thật tốt, các bạn cần sẵn sàng tiếp thu kiến thức bằng sự cầu thị nhất có thể. “Tùy theo công ty mà bạn có nhận hoặc không được nhận mức lương hỗ trợ trong quá trình thực tập. Và mức lương hỗ trợ thực tập nếu có thì cao hay thấp không quan trọng bằng kiến thức chúng ta học hỏi được, cho nên các em đừng quá bận tâm về vấn đề này...”, bà Hoàng Oanh nói thêm.
Ngoài ra, yếu tố năng động, chủ động với công việc luôn được đề cao trong quá trình thực tập.
Ông Trần Công Dương, Giám đốc Công ty TNHH Đại Dương (TP.HCM), cho biết: “Các bạn thực tập ở công ty thì tôi yêu cầu phải năng động, sáng tạo và không ngừng học hỏi kinh nghiệm từ anh chị đi trước qua sự chủ động bắt chuyện, chủ động xin liên hệ, chủ động xin theo học hỏi”.
Cũng theo ông Dương, trang phục thực tập của sinh viên phải nghiêm túc và phù hợp với cơ quan, đơn vị đó.
Theo ông Đỗ Văn Sự, giảng viên Trường ĐH Công nghệ TP.HCM, trong thực tế vẫn có tình trạng sinh viên khi đi thực tập có tính ù lì. “Nguyên nhân dẫn đến thực trạng sinh viên ù lì, lười vận động trong kỳ thực tập là do các bạn sợ sai, thiếu tự tin trong giao tiếp”.
Để khắc phục tình trạng này, ông Sự khuyên: “Trong quá trình thực tập, sinh viên cần trau dồi về các kỹ năng mềm như: kỹ năng giao tiếp, nói trước công chúng, kỹ năng thuyết trình... Bên cạnh đó, kỹ năng làm việc nhóm cũng rất quan trọng trong kỳ thực tập, bởi đa số công ty hiện nay đều phân chia công việc theo nhóm, đặc biệt là công ty truyền thông. Kỹ năng làm việc nhóm rất phổ biến cho nên chúng ta cần phải học hỏi. Chúng ta có thể sẽ phải làm việc với người mình không thích trước đó nhưng phải kiềm chế cái tôi của mình trong quá trình làm việc chung”.
Nguồn: thanhgiong.vn

BÀI HÁT THANH NIÊN
Chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên lời bài hát
                       Tháng năm nhớ Bác

Lời: Tân Việt 
Nhạc: Thanh Bình

Nghìn thu dân tộc nhớ ơn Người 
Vất vã bôn ba khắp mọi nơi tìm kiếm tự do cho Tổ Quốc 
Như một vầng dương luôn ngời sáng. 
Bác đã hi sinh cả cuộc đời cho dân tộc mình mãi mãi tự do 
Hai cuộc trường chinh chúng con luôn có Bác 
Tiếp bước cha ông gìn giữ quê hương. 
“Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”
Tiếng Bác trầm vang giữa nắng hồng... 
Ngày hai tháng chín Ba Đình còn ghi mãi 
lời Bác năm nào vang vọng khắp núi sông. 
Ôi Bác Hồ ơi nhớ Bác nhiều, nước non ơn Bác biết bao nhiêu 
Tháng năm ngày hạ mùa sen nở nhắc nhở cháu con những sớm chiều. 
Ôi Bác Hồ ơi nhớ Bác nhiều, nước non ơn Bác biết bao nhiêu 
Di chúc ân tình người để lại chúng con ghi nhớ mãi muôn đời.


 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Thăm dò ý kiến

Website của tuổi trẻ Thăng Bình thế nào?

standee trai
standee ben trai