TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN
Số 03 – Tháng 4/2017
CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 42 GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1945 – 30/4/2017)
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Sửa đổi lối làm việc” với Chỉ thị số 05 CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị Cách đây 70 năm, vào tháng 10/1947, sau khi giành được chính quyền 02 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy Bí danh là XYZ viết một tác phẩm đặc biệt quan trọng để huấn luyện, giáo dục, rèn luyện phương pháp, đạo đức và phong cách làm việc cho cán bộ đảng viên của Đảng ta.
Người viết: “Hiện nay phong trào cách mạng rất cao. Nhưng thử hỏi cán bộ và hội viên ta đã mấy người biết rõ lý luận và biết áp dụng vào chính trị - quân sự, kinh tế và văn hóa? Đã mấy người hiểu “biện chứng” là gì? Vì kém lý luận, cho nên khi gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại”.
Vì vậy, nội dung chủ yếu của tác phẩm này là Hồ Chí Minh đã quán triệt một cách nhuần nhuyễn phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời Người dạy chúng ta cách suy nghĩ và làm việc đúng đắn để hoàn thành tốt công tác cách mạng và trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Bác đã khái quát nêu ra hai phương pháp cơ bản sau:
Một là, phải đứng vững trên quan điểm duy vật để xem xét giải quyết mọi vấn đề của cách mạng. Đứng vững trên lập trường duy vật để kiên quyết chống lại bệnh chủ quan - một căn bệnh nguy hiểm nhất gây tác hại to lớn cho cách mạng. Người phân tích: “Nguyên nhân của bệnh chủ quan” là “kém lý luận hoặc khinh lý luận hoặc lý luận suông”. Hồ Chí Minh nói: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính. Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”… “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm vào lý luận. Vì vậy chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành”.
Hai là, phải nắm vững phương pháp biện chứng để xem xét và giải quyết mọi vấn đề của cách mạng Việt Nam. Nắm vững phép biện chứng là để kiên quyết chống lại căn bệnh hẹp hòi. Hồ Chí Minh viết: “Bệnh này là rất nguy hiểm mà nhiều cán bộ và đảng viên còn mắc phải. Trong thì bệnh này ngăn trở Đảng thống nhất và đoàn kết. Ngoài thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân. Nhiều thứ bệnh như chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa… đều do bệnh hẹp hòi mà ra”, dẫn đến giải quyết công việc một cách phiến diện…
Còn về tư cách và đạo đức cách mạng, tư cách của Đảng chân chính cách mạng thì Hồ Chí Minh viết: “Đảng không phải là một tổ chức làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phòng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng và lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau…Nếu không vậy thì không biết nắm vững các cách thức tranh đấu và các cách thức tổ chức, không biết liên hợp lợi ích ngày thường và lợi lâu dài của dân chúng”.
Về phận sự của đảng viên và cán bộ, Người yêu cầu: Thứ nhất, trọng lợi ích của Đảng hơn hết. Hồ Chí Minh viết “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức Nhân dân, lãnh đạo Nhân dân để giải phóng Nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hóa, chính trị của Nhân dân. Vì toàn dân được giải phóng, tức là Đảng được giải phóng”; thứ hai là, đạo đức cách mạng. Người viết “Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt như sau ngày càng thêm. Nói tóm lại, tính tốt ấy gồm có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”; thứ ba, phải giữ kỷ luật. Hồ Chí Minh viết “lợi của dân tộc, gồm có lợi ích của Đảng. Lợi ích của Đảng, gồm có lợi ích của đảng viên. Vì vậy, sự phát triển và thành công của Đảng, một mặt tức là thành công của dân tộc, một mặt tức là thành công của đảng viên. Vì vậy, chỉ có khi Đảng thành công và thắng lợi, thì đảng viên mới có thể thành công và thắng lợi. Chính vì vậy mà đảng viên cần phải hy sinh lợi ích của mình cho lợi ích chung của Đảng. Không ai bắt buộc ai vào Đảng làm chiến sỹ xung phong. Đó là do sự “tự giác”, lòng hăng hái của mỗi người mà tình nguyện làm đảng viên, làm chiến sỹ xung phong… Đồng thời, bất kỳ ở hoàn cảnh nào, đảng viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức phấn đấu, ra sức làm việc, cố gắng học tập để nâng cao trình độ văn hóa, tri thức và chính trị của mình.
Vì vậy, muốn sửa đổi lối làm việc cho cán bộ đảng viên thì phải huấn luyện cán bộ. Người viết: cán bộ là gốc của mọi công việc. Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Việc huấn luyện cán bộ cần tập trung vào các nội dung: huấn luyện nghề nghiệp, huấn luyện chính trị, huấn luyện văn hóa, huấn luyện lý luận… và chính Người là hiện thân về sử dụng vũ khí sắc bén của phép biện chứng duy vật để huấn luyện cán bộ, giải quyết mọi vấn đề khó khăn, phức tạp trên con đường lãnh đạo cách mạng Nước ta vượt qua bao sóng gió để tiến lên giành thắng lợi vẻ vang.
Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh về “Sửa đổi lối làm việc” - sửa đổi phương pháp, phong cách làm việc, trước thực trạng đội ngũ cán bộ đảng viên mà Nghị quyết TW4 (Khóa XI) và Nghị quyết TW4 (Khóa XII) đã thẳng thắng chỉ ra, ngày 15/5/2016 Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (Khóa XII) đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, nhằm kiên trì xây dựng, chỉnh đốn Đảng, rèn luyện cho cán bộ đảng viên của Đảng thật sự có đạo đức cách mạng theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, đặc biệt là rèn luyện cho cán bộ đảng viên thấm nhuần và thực hiện tốt phong cách làm việc, phong cách sinh hoạt, phong cách sống theo tấm gương của Bác.
Để đạt được điều đó, Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị yêu cầu toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đây là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng.., xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu… Lấy kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm.
Có thể nói rằng, Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị là sự hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về “Sửa đổi lối làm việc”- những lời di huấn thiêng liêng của Người đối với cán bộ đảng viên trong toàn Đảng ta trước đây, ngày nay và mãi mãi sau này - Nó có ý nghĩa quyết định đến sự sống còn của Đảng, sự tồn vong của chế độ ta. Chỉ thị đã thể hiện sự thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Bác về đạo đức và phong cách làm việc đối với người cán bộ đảng viên, vì vậy để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là công bộc, là đầy tớ thật trung thành của Nhân dân thì hơn lúc nào hết mỗi cán bộ đảng viên cần phải nghiêm túc tự mình sửa đổi ngay lối làm việc theo đúng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại để củng cố niềm tin đối với Nhân dân, hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử mà Đảng và nhân dân giao phó.
Nguồn Trang tin điện tử Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
DI TÍCH LỊCH SỬ TẠI THĂNG BÌNH
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 03/2017, chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn đoàn viên thanh niên, các tổ chức Đoàn về Di tích lịch sử “Cuộc đấu tranh Hà Lam - Chợ Được” (Thôn 3, xã Bình Triều, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) Đài tưởng niệm cuộc đấu tranh Hà Lam - Chợ Được toạ lạc tại thôn 3, xã Bình Triều, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Từ ngã tư Hà Lam, đi về hướng Đông theo Tỉnh lộ ĐT613 khoảng 5km là đến di tích. Di tích nằm cách Chợ Được khoảng 300m và đối diện với trạm y tế xã Bình Triều.
Đầu tháng 9 năm 1954, quân địch đã tiếp quản xong ở Thăng Bình. Ngày 4/9/1954, tên Trần Hải - đại đôi trưởng đội 4, tiểu đoàn 611 đóng tại Chợ Được đã dẫn một trung đội lính đi chặt cây dương liễu để sửa chữa cầu Bàu Bàng, trên đường 16 (106) cũ (nay đường ĐT 613), để thông tuyến đường về Thị trấn Hà Lam, quận lỵ Thăng Bình. Bọn lính của tên Trần Hải ngang nhiên chặt cây của nhân dân mà không cần sự đồng ý của họ. Anh Nguyễn Hề (là chủ cây) được tin liền đến nơi đấu tranh đòi chúng bồi thường thiệt hại. Đồng bào thấy vậy cũng kéo đến mỗi lúc một đông, cùng nhau hiệp lực đấu tranh, đòi chúng phải bồi thường cho anh Hề 20.000 đồng. Trước khí thế đấu tranh hừng hực của nhân dân, tên Trần Hải nhận lời và bảo anh Hề xuống đồn Chợ Được nhận tiền, nhưng nhân dân đòi tên Hải phải bồi thường tại chỗ. Tên Hải không những không bồi thường tiền cho anh Hề mà còn hung hăng ra lệnh cho quân lính nổ súng, bắn loạn xạ vào làng xóm, xung quanh ruộng đồng, ném lựu đạn vào nhân dân làm chết và bị thương một số người đang dặm lúa trên đồng. Phẫn nộ tội ác của kẻ thù, nhân dân liền khiêng những người chết và bị thương lên đồn để ngay ngắn và phủ cờ đỏ sao vàng lên người, gây xúc động và thu hút sự chú ý của 2 nhiều người. Nhân dân từ các xã, huyện lân cận như Tam Kỳ, Quế Sơn, Tiên Phước…kể cả một số bà con người Quảng Ngãi đi buôn bán kéo tới hợp sức đấu tranh ngày càng đông, họ đồng thanh hô vang khẩu hiệu: “Đả đảo bọn giết người; bồi thường cho người bị giết hại.. “. Hết đợt này đến đợt khác, lúc đông nhất có tới 5.000 người. Nhân dân ở Chợ Được còn nấu cơm để phục vụ cho những người trụ bám đấu tranh. Lúc này Huyện uỷ Thăng Bình đang tổ chức một cuộc họp gần đấy, nắm bắt được tình hình, đồng chí Phan Tốn, Phó Bí thư Tỉnh uỷ đứng ra lãnh đạo cuộc đấu tranh, hướng cuộc đấu tranh đi đúng hướng, tránh để bị địch khiêu khích, lấy cớ để đàn áp nhân dân ta. Nhưng quá phẫn nỗ về tội ác dã man của địch, nhân dân ta vẫn xông vào, vừa cô lập từng tên lính, vừa tranh thủ vận động binh lính ủng hộ cuộc đấu tranh. Nhiều người đã tước vũ khí, bỏ cát vào nòng súng chất thành đống, cắt dây điện thoại làm cho sự liên lạc của địch bị gián đoạn. Bọn địch cho máy bay ném lựu đạn vào đám đông quần chúng nhân dân đang đấu tranh làm chết thêm năm người, đồng thời rãi truyền đơn hăm doạ, bắt nhân dân giải tán. Quân địch đóng ở Hà Lam được lệnh của Quận trưởng kéo xuống Chợ Được giải toả cho đơn vị đồn trú. Nhưng chưa đến nơi, chúng đã bị nhân dân bao vây đấu tranh. Nhiều chị, nhiều mẹ dũng cảm lăn xả ra đường cản xe, buộc chúng phải quay về. Chiều hôm ấy, tại ngã tư Hà Lam địch còn bắn chết bốn người và bắt một số bà con sống ở gần Chợ Được về tra tấn. Mặc dầu bị hăm doạ khủng bố, ngày thứ hai (5/9/1954), nhân dân vẫn tiếp tục đòi chỉ huy đồn bồi thường nhân mạng, cứu chữa người bị thương. Các mẹ, các chị tranh thủ vận động từng người lính, dùng lời lẽ thiệt hơn để làm cho chúng nhận thấy được sai lầm tội lỗi và đồng tình với nhân dân đấu tranh. Một số binh lính đã tìm cách bỏ trốn về quê hương, gia đình. Sau nhiều lần đại diện nhân dân đấu tranh với chỉ huy đồn, hai bên đã đồng thuận lập kiến nghị lên Uỷ ban Quốc tế, Tổ Liên hợp đình chiến trên địa bàn Quảng Nam tại Dốc Sỏi (Núi Thành). Tên Trần Hải đã cùng đi với bốn đại diện của quần chúng nhân dân đến Dốc Sỏi yêu cầu cơ quan có trách nhiệm đến hiện trường để giải quyết. Ngày 6/9/1954, ta tiếp tục lãnh đạo nhân dân đấu tranh buộc bọn chỉ huy đồn phải chuyển 23 đồng bào bị thương đến bệnh viện Hội An cứu chữa và khâm liệm, an táng 43 người đã chết ở phía Tây Chợ Được. Đêm 6/9/1954, Tiểu đoàn trưởng 611 của địch đưa quân từ Hà Lam xuống vây Chợ Được, 5 giờ sáng ngày 7/9/1954 chúng nổ súng tấn công làm chết thêm ba người nữa và bắt tất cả binh lính của đơn vị đồn trú tại Chợ Được về quận xét về tội bị Việt Cộng đầu độc. Đại đội 4 bảo an đồn trú tại Chợ Được tan rã. Cuộc đấu tranh kéo dài 3 ngày, thấy xu thế của cuộc đấu tranh có thể dẫn đến bất lợi, Huyện uỷ chỉ đạo cho quần chúng giải tán, vì cuộc đấu tranh đã thắng lợi. Địch đã nhượng bộ và nhận lỗi trước nhân dân, chịu mọi chi phí cứu chữa người bị thương, chôn cất người chết và bồi thường thiệt hại cho thân nhân người bị hại. Để ghi lại tội ác của Mỹ - Diệm và tưởng nhớ đến những người đã ngã xuống cho cuộc đấu tranh vì quê hương, vì lý tưởng cách mạng; một đài tưởng niệm đã được xây dựng ở gần Chợ Được.
Đài tưởng niệm cuộc đấu tranh Hà Lam - Chợ Được xây dựng trên một khuôn viên khá rộng, có diện tích 8988m2 , có tường rào cổng ngõ bao quanh khá kiên cố. Phần tượng đài được xây dựng khá quy mô với một hình khối cao khoảng 5m, thể hiện 3 người đứng tựa lưng vào nhau, bao gồm: một cụ già cầm chắc cây gậy trên tay, một cô gái đang cầm nón lá và một thanh niên đang bồng một em bé bất động trên tay. Phía sau tượng đài là hai bức phù điêu bằng xi măng đắp nổi, mô tả quá trình đấu tranh của nhân dân Hà Lam - Chợ Được trong cuộc đấu tranh ngày 04/9/1954. Giữa hai bức phù điêu là một bệ thờ, phía trong bệ thờ có dòng chữ “Tổ quốc ghi công”, phía trước bệ thờ là một lư hương to được đúc bằng xi măng. Phía trước tượng đài là một tấm bia bằng đá hoa cương màu trắng, viền xanh ngọc khắc chìm chữ màu đỏ ghi dấu sự kiện. Trong khuôn viên đài tưởng niệm được trồng nhiều loại cây để tạo cảnh quan như hoa sứ, vạn tuế, các cây dương liễu được cắt tỉa rất gọn gàng.
Cuộc đấu tranh Hà Lam - Chợ Được đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh cách mạng toàn miền Nam lúc bấy giờ, ghi thêm một nét son chói lọi trong lịch sử đấu tranh của dân tộc. Cuộc đấu tranh Hà Lam - Chợ Được thể hiện rõ tinh thần kiên trung, bất khuất của nhân dân Thăng Bình nói riêng và nhân dân Quảng Nam nói chung đã ngã xuống cho cuộc đấu tranh vì quê hương, vì lý tưởng cách mạng. Cuộc đấu tranh Hà Lam - Chợ Được là chứng tích tội ác tố cáo bộ mặt tàn bạo, phi nghĩa của bọn Mỹ - Diệm đã gây ra cho những người dân trên quê hương này
Nguồn: Công thông tin điện tử huyện Thăng Bình
THEO DÒNG LỊCH SỬ
Những ngày đáng nhớ trong tháng 4: - 10/3 (âm lịch): Ngày giỗ tổ Hùng Vương
- 07/4/1907: Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn
- 25/4/1976: Ngày tổng tuyển cử bầu quốc hội chung của cả nước
- 27/4/1998: Ngày mất của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh
- 30/4/1975: Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
- 01/5/1886: Ngày Quốc tế Lao động.
Đề cương tuyên truyền 110 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn; giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975–30/4/2017) đăng trên Trang thông tin điện tử Huyện đoàn Ngày Giỗ tổ Hùng Vương, Mùng 10 tháng 3 (âm lịch) “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba Khắp miền truyền mãi câu ca Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm” Trong lịch sử Việt Nam, những người có công lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ nhân dân, chống ngoại xâm đều được nhân dân ta nhớ ơn. Một trong những ngày kỷ niệm mà mọi người dân yêu nước từ Bắc chí Nam đều biết và đã có từ ngàn xưa đến ngày nay là Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.
Trong nhiều truyền thống tốt đẹp, dân tộc Việt Nam ta luôn giữ vững một truyền thống có ý nghĩa hay và đẹp vô cùng: tưởng nhớ tổ tiên, tưởng nhớ những người đã có công lớn trong việc dựng nước và giữ nước.
Hàng năm, vào dịp mùng 10/3 âm lịch, hàng chục vạn lượt đồng bào từ khắp mọi miền trong cả nước về Đền Hùng trẩy hội, thắp hương thơm thành kính lễ tổ tiên, tưởng nhớ công đức to lớn của các Vua Hùng dựng nước.
Do nhu cầu trị thủy, chống giặc ngoại xâm và do việc trao đổi kinh tế -văn hóa ngày càng được đẩy mạnh, giữa các bộ lạc gần gũi nhau về dòng máu có xu hướng tập hợp và thống nhất với nhau. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, có bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả, lãnh thổ của bộ lạc này trải dài từ chân núi Ba Vì tới sườn Tam Đảo. Thủ lĩnh của bộ lạc Văn Lang đã đóng vai trò lịch sử là người đứng ra thống nhất các bộ lạc Lạc Việt dựng nên nước Văn Lang, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu (nay là xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ), chia nước ra 15 bộ:
1. Văn Lang (Bạch Hạc, Phú Thọ)
2. Châu Diên (Sơn Tây)
3. Phú Lộc (Sơn Tây)
4. Tân Hưng (Hưng Hóa - Tuyên Quang)
5. Vũ Định (Thái Nguyên - Cao Bằng)
6. Vũ Ninh (Bắc Ninh)
7. Lục Hải (Lạng Sơn)
8. Ninh Hải (Quảng Yên)
9. Dương Tuyền (Hải Dương)
10. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình)
11. Cửu Chân (Thanh Hóa)
12. Hoài Hoan (Nghệ An)
13. Cửu Đức (Hà Tĩnh)
14. Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị)
15. Bình Văn (không rõ địa danh hiện nay)
Các đời vua sau đều gọi là Hùng Vương. Theo Ngọc phả Hùng Vương, có 18 đời vua Hùng:
1. Kinh Dương Vương Lộc Tục, tôn dâng miến hiệu là Hưng Dương- vị vua viễn tổ.
2. Lạc Long Quân Sùng Lâm, thụy hiệu Hùng Hiền - vị vua cao tổ.
3. Hùng Quốc Vương, húy là Lân Lang - vị vua mở nước.
4. Hùng Diệp Vương Bảo Lang.
5. Hùng Huy Vương Lang Viên Lang.
6. Hùng Huy Vương (cùng hiệu với đời thứ năm), húy là Pháp Hải Lang.
7. Hùng Chiêu Vương Tiên Lang.
8. Hùng Vi Vương Thừa Vân Lang.
9. Hùng Duy Vương Quốc Lang.
10. Hùng Uy Vương Vương Hùng Hải Lang.
11. Hùng Chính Vương Hùng Đức Lang.
12. Hùng Vũ Vương Đức Hiền Lang.
13. Hùng Việt Vương Tuấn Lang.
14. Hùng Anh Vương Châu Nhân Lang.
15. Hùng Chiêu Vương Cảnh Châu Lang.
16. Hùng Tạo Vương Đức Quân Lang.
17. Hùng Nghị Vương Bảo Quang Lang.
18. Hùng Duệ Vương Huệ Lang.
Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng là nhà nước phôi thai đầu tiên của Việt Nam, còn rất đơn giản, mặc dù mới hình thành nhưng đã cố kết được lòng người.
Nhìn chung, cha ông ta đã dựng nước trong một khung cảnh thiên nhiên thích hợp, thuận lợi, trên một dải đất có nhiều núi cao, rừng rậm, nhiều sông ngòi, hồ ao, có các ngả đường giao thông quan trọng với các miền khác; đó cũng là miền đất giàu có, nhiều khoáng sản, lâm sản, hải sản, nhất là lại có những cánh đồng phì nhiêu thích hợp với nghề nông. Những yếu tố thiên nhiên này đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tiến bộ về kinh tế và văn hóa, dẫn đến việc dựng nước Văn Lang, một nước có đủ sức chống ngoại xâm, có nền văn hóa phát triển của vùng Đông Nam Á thời đó.
Hùng Vương là thủ lĩnh của nước Việt Nam thời kỳ bắt đầu dựng nước. Lãnh thổ đầu tiên của tổ tiên là miền Bắc Việt Nam. Những nhóm dân quan trọng nhất là người Việt cổ, ban đầu họ sống thành từng công xã, ràng buộc với nhau bởi mối quan hệ máu mủ. Họ đoàn kết tương thân, tương ái trong công việc làm ăn và giữ nước. Con người Việt Nam thời Hùng Vương vừa mới cố sức vươn lên khỏi cuộc sống tự nhiên đầy khó khăn gian khổ, rừng rậm, đầm lầy, thú dữ, bão giông, lụt lội… đã phải đương đầu với kẻ thù xâm lược. Tản Viên Sơn Thần (Sơn Tinh vị thần núi Tản Viên) là truyền thuyết tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên cho chiến thắng thiên tai; Thánh Gióng là truyền thuyết ca ngợi tinh thần chiến đấu bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta… Những truyền thống tốt đẹp đó duy trì bền vững trong xã hội Việt Nam.
Thời kỳ Hùng Vương là một giai đoạn rất quan trọng trong lịch sử dân tộc, chính thời kỳ này đã xây dựng nên một nền tảng của dân tộc Việt Nam, nền tảng văn hóa Việt Nam và truyền thống yêu nước Việt Nam.
Từ lâu, nhân dân ta lấy ngày mùng 10/3 (âm lịch) hàng năm làm Ngày Giỗ Tổ và cùng nhau trẩy hội Đền Hùng để tưởng nhớ đến cội nguồn, tổ tiên của dân tộc Việt Nam theo đúng với đạo lý
“Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.
Sáng ngày 19/9/1954 tại Đền Giếng trong khu di tích Đền Hùng tỉnh Phú Thọ, khi gặp gỡ các chiến sĩ Đại đoàn 308 trước khi về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, Bác Hồ đã căn dặn:
“Các Vua Hùng đã có công dựng nước.
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”.
Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, người dân Việt Nam càng tự hào với giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tưởng nhớ tổ tiên, tưởng nhớ những người đã có công lớn trong việc dựng nước và giữ nước. Do vậy, mỗi công dân Việt Nam luôn có trách nhiệm: nêu bật những giá trị lịch sử, văn hóa và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam; giới thiệu những phong tục, tập quán tốt đẹp của cộng đồng dân tộc Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước; có ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động, dũng cảm trong đấu tranh dựng nước và giữ nước; ủng hộ và thực hiện những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; cổ vũ các tầng lớp nhân dân, người Việt Nam ở nước ngoài hướng về cội nguồn dân tộc, đồng lòng, chung sức xây dựng đất nước hội nhập và phát triển.
25/4/1976: Ngày tổng tuyển cử bầu quốc hội chung của cả nước Ngày 25/4/1976, Nhân dân khắp hai miền Bắc- Nam nô nức tham gia Tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Đây là lần thứ hai cuộc Tổng tuyển cử được tổ chức trên phạm vi cả nước, sau lần đầu tổ chức từ ngày 06/01/1946. Hơn 23 triệu cử tri (98.8% tổng số cử tri) đi bầu và đã bầu ra 492 đại biểu. Kết quả của Tổng tuyển cử là một thắng lợi có ý nghĩa quyết định trên con đường tiến tới hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước.
Ngày 24/6/1976, Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất, được gọi là Quốc hội khóa VI với ý nghĩa kế tục sự nghiệp của 5 khóa Quốc hội trước, họp kỳ đầu tiên tại Hà Nội. Quốc hội quyết định đặt tên nước Việt Nam thống nhất là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua chính sách đối nội, đối ngoại, bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của Nhà nước, quy định các nguyên tắc xây dựng bộ máy chính quyền các cấp, quy định quốc kỳ, quốc ca, bầu Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Với kết quả của kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI, công việc thống nhất đất nước về mặt Nhà nước đã hoàn thành, đáp ứng nguyện vọng của quần chúng Nhân dân, đáp ứng yêu cầu tất yếu khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện của đất nước, tập trung cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất, mở ra khả năng to lớn để phát triển quan hệ với các nước trên thế giới. Những thành quả bước đầu trong sự nghiệp thống nhất đất nước năm đầu tiên sau hòa bình đã cho phép hai miền cùng bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm trên phạm vi cả nước.
Ngày Quốc tế lao động 1/5: Lịch sử và ý nghĩa Ngày Quốc tế lao động, ngày hội của những người lao động toàn thế giới, được tổ chức vào 01/5 hàng năm.
Trong cuộc đấu tranh giữa tư bản và lao động, vấn đề thời gian lao động có ý nghĩa quan trọng. Ngay sau khi thành lập Quốc tế I năm 1864, Mác coi việc rút ngắn thời gian lao động là nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp vô sản. Tại Đại hội I Quốc tế I họp tại Giơ-ne-vơ tháng 9/1866 vấn đề đấu tranh cho ngày làm việc 8 giờ được coi là nhiệm vụ trước mắt. Khẩu hiệu ngày làm 8 giờ sớm xuất hiện trong một số nơi của nước Anh- nước có nền công nghiệp phát triển sớm nhất. Yêu sách này dần lan sang các nước khác.
Phong trào đòi làm việc 8 giờ phát triển mạnh ở nước Mỹ từ năm 1827 đi đôi với sự nảy nở và phát triển phong trào Công đoàn. Năm 1868, giới cầm quyền Mỹ buộc phải thông qua đạo luật ấn định ngày làm 8 giờ trong các cơ quan, xí nghiệp thuộc Chính phủ. Nhưng xí nghiệp tư nhân vẫn giữ ngày làm việc từ 11 đến 12 giờ.
Tháng 4/1884 tại thành phố công nghiệp lớn Si-ca-gô, Đại hội Liên đoàn lao động Mỹ thông qua Nghị quyết nêu rõ: từ ngày 01/5/1886 ngày lao động của tất cả công nhân sẽ là 8 giờ.
Ngày 01/5/1886, công nhân toàn thành phố Si-ca-gô tiến hành bãi công, 40 nghìn người không đến nhà máy. Họ tổ chức mittinh, biểu tình trên thành phố với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ học tập”, cuộc đấu tranh lôi cuốn ngày càng đông người tham gia. Cùng ngày đó, các Trung tâm công nghiệp ở nước Mỹ đã nổ ra 5.000 cuộc bãi công với 340 nghìn công nhân tham gia. Ở một số nơi như Niu-Oóc, Pi-Xbớc, Ban-ti-mo, Oa-sinh-tơn… có khoảng 12 vạn rưỡi công nhân giành được quyền làm việc 8 giờ một ngày, khẩu hiệu “Ngày làm việc 8 giờ” trở thành tiếng nói chung của toàn thể giai cấp công nhân. Ở nhiều nơi cảnh sát đã đàn áp các cuộc biểu tình, đặc biệt ở thành phố Si-ca-gô cảnh sát đã tàn sát đẫm máu cuộc đấu tranh, làm hơn một trăm người chết, nhiều thủ lĩnh Công đoàn bị bắt và bị kết án tử hình.
Mặc dù cuộc bãi công ở Si-ca-gô bị trấn áp, nhưng khí phách anh hùng của công nhân và yêu cầu thiết thực của cuộc đấu tranh đã gây chấn động lớn trong giai cấp công nhân thế giới; công nhân nhiều nước đã đồng tình và hưởng ứng yêu sách của công nhân Si-ca-gô. Vì thế tại Đại hội thành lập Quốc tế II do Ph.Ăng-ghen lãnh đạo họp ngày 14/7/1889, Đại biểu của giai cấp công nhân thông qua Nghị quyết lấy ngày 01/5 hàng năm làm ngày đoàn kết đấu tranh của giai cấp vô sản toàn thế giới.
Thực hiện Nghị quyết trên, năm 1890 lần đầu tiên ngày Quốc tế lao động 01/5 được tổ chức trên quy mô thế giới.
Ngày 01/5 ở các nước xã hội chủ nghĩa, đã coi là ngày mừng thắng lợi đã đạt được, nêu quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ mới và biểu lộ tình đoàn kết với những người lao động các nước khác. Ở các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa, ngày 01/5 là ngày biểu dương cho lực lượng lao động, đấu tranh cho hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội.
Ở Việt Nam, sau khi Đảng cộng sản Đông Dương ra đời (1930), giai cấp công nhân Việt Nam cũng lấy ngày 01/5 là ngày đoàn kết đấu tranh của mình. Cuộc đấu tranh ngày 01/5/1930 là một bước ngoặt của cao trào cách mạng 1930- 1931, từ thành thị đến nông thôn, từ Bắc đến Nam nhiều nơi treo cờ Đảng, tổ chức mittinh, tuần hành thị uy, lần đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng và hướng dẫn vận động của Công hội, công nhân ta biểu tình kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 01/5 đấu tranh đòi quyền lợi, tỏ tình đoàn kết với công nhân lao động thế giới.
Trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám việc kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 01/5 phần nhiều phải tổ chức bí mật bằng hình thức treo cờ, rải truyền đơn. Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp và Mặt trận dân chủ Đông Dương, ngày Quốc tế lao động lần đầu tiên được tổ chức công khai tại Hà Nội, thu hút đông đảo các tầng lớp Nhân dân tham gia.
Ngày nay, ngày Quốc tế lao động là ngày hội của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động nước ta, ngày đoàn kết giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nguồn: lichsuvietnam.vn
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC DÀNH CHO THANH NIÊN
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 03/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên, thanh niên, các tổ chức Đoàn nội dung còn lại Quyết định số 57/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với hoạt động tình nguyện của Thanh niên được ban hành ngày 16/11/2015 với các nội dung sau: Chương III:
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÌNH NGUYỆN CỦA THANH NIÊN VÌ CỘNG ĐỒNG, XÃ HỘI Điều 7. Chính sách đối với thanh niên trong quá trình tham gia hoạt động tình nguyện 1. Được tập huấn, bồi dưỡng về kiến thức, nghiệp vụ và kỹ năng hoạt động tình nguyện.
2. Được hưởng tiền bồi dưỡng trong thời gian hoạt động tình nguyện, được trang bị phương tiện làm việc, phương tiện bảo hộ cá nhân (nếu có) bảo đảm an toàn, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ hoạt động tình nguyện.
3. Được tham gia hoạt động đoàn thể; được bồi dưỡng, xét kết nạp vào Đoàn, kết nạp Đảng nếu đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Điều lệ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Thanh niên có hành động dũng cảm bị chết hoặc bị thương thuộc một trong các trường hợp theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng thì được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi diễn ra hoạt động tình nguyện đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, công nhận là liệt sĩ hoặc quyết định được hưởng chính sách như thương binh theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng.
5. Thanh niên có tham gia đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế thì được hưởng chế độ theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
6. Thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bắt buộc và chưa tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tự nguyện trong khi hoạt động tình nguyện bị tai nạn thì được cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện bảo đảm chính sách sau đây:
a) Trường hợp bị tai nạn dẫn đến suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được hỗ trợ tối thiểu một nửa chi phí cứu chữa, phục hồi sức khỏe, phục hồi chức năng bị suy giảm;
b) Trường hợp bị tai nạn dẫn đến suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì ngoài chế độ hỗ trợ được hưởng theo quy định tại Điểm a Khoản này còn được trợ cấp một lần bằng 03 lần mức lương cơ sở, sau đó cứ suy giảm thêm 01% thì được hưởng thêm 0,5 lần mức lương cơ sở;
c) Trường hợp bị chết do tai nạn lao động thì được trợ cấp một lần bằng 36 lần mức lương cơ sở.
7. Thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện bị chết thì được cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện hỗ trợ mai táng và phương tiện đưa về quê quán, gia đình.
Điều 8. Chính sách đối với thanh niên sau khi kết thúc hoạt động tình nguyện 1. Được hưởng chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và tạo việc làm theo quy định của pháp luật về giáo dục nghề nghiệp và quy định của pháp luật về việc làm.
2. Được xem xét, ưu tiên tuyển chọn tham gia các chương trình, đề án, dự án phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc nếu hoạt động tình nguyện từ 03 tháng trở lên. Trường hợp tham gia nhiều hoạt động tình nguyện theo đợt thì được cộng dồn thời gian tham gia hoạt động tình nguyện.
3. Thanh niên là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế nhà nước, lực lượng vũ trang tham gia hoạt động tình nguyện có hành động dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và của Nhân dân mà bị thương cần điều trị theo kết luận của cơ quan y tế thì thời gian nghỉ làm việc để điều trị vẫn được tính vào thời gian hưởng các chế độ, chính sách của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
4. Thanh niên là học sinh, sinh viên tham gia hoạt động tình nguyện có hành động dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và của Nhân dân mà bị thương cần điều trị theo kết luận của cơ quan y tế, làm gián đoạn quá trình học tập thì được xem xét, tạo điều kiện để hoàn thành chương trình học tập.
5. Thanh niên có thành tích xuất sắc trong hoạt động tình nguyện được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Điều 9. Chính sách đối với cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện vì cộng đồng, xã hội 1. Được huy động, sử dụng viện trợ, tài trợ bằng tiền mặt hoặc bằng sản phẩm, hàng hóa từ các nguồn viện trợ, tài trợ hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
2. Được Ủy ban nhân dân các cấp tạo điều kiện, bảo đảm an ninh, trật tự trong quá trình tổ chức hoạt động tình nguyện.
3. Cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện có thành tích xuất sắc trong hoạt động tình nguyện được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Chương IV:
TRÁCH NHIỆM THỰC HIỆN VÀ ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH Điều 10. Trách nhiệm của thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện 1. Thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 3 Quyết định này thực hiện trách nhiệm được phân công tại chương trình, đề án, dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
2. Thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 3 Quyết định này có trách nhiệm sau đây:
a) Đăng ký tham gia hoạt động tình nguyện với cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện;
b) Chấp hành quy định của pháp luật, nội quy của cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện và phong tục, tập quán của địa phương nơi diễn ra hoạt động tình nguyện;
c) Thực hiện nhiệm vụ theo phân công của cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện; đoàn kết, phối hợp tốt với thanh niên địa phương trong quá trình hoạt động tình nguyện;
d) Thanh niên là cán bộ, công chức, viên chức tham gia hoạt động tình nguyện phải báo cáo và được cơ quan có thẩm quyền quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức chấp thuận;
đ) Thanh niên là học sinh, sinh viên tham gia hoạt động tình nguyện trong thời gian học tập phải báo cáo và được cơ quan, đơn vị quản lý trực tiếp chấp thuận.
Điều 11. Trách nhiệm của cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện 1. Cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 3 Quyết định này có trách nhiệm bảo đảm chính sách đối với thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện quy định tại Điều 5 và Điều 6 Quyết định này và các chế độ, chính sách khác trong chương trình, đề án, dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
2. Cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 3 Quyết định này cótrách nhiệm sau đây:
a) Xây dựng kế hoạch tổ chức hoạt động tình nguyện, trong đó nêu rõ mục đích, thời gian, địa điểm, nội dung, chương trình hoạt động tình nguyện, số lượng, thành phần thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện;
b) Gửi kế hoạch tổ chức hoạt động tình nguyện trước khi tổ chức hoạt động tình nguyện đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi diễn ra hoạt động tình nguyện; đến Ủy ban nhân dân cấp huyện nếu hoạt động tình nguyện diễn ra trên địa bàn hai xã thuộc huyện trở lên; đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nếu hoạt động tình nguyện diễn ra trên địa bàn hai huyện thuộc tỉnh trở lên. Đồng thời, phối hợp với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cùng cấp tổ chức thực hiện;
c) Tổ chức hoạt động tình nguyện, quản lý thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện bảo đảm đúng kế hoạch, an toàn, hiệu quả, tránh hình thức gây lãng phí và phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương;
d) Xây dựng nội quy hoạt động tình nguyện, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cần thiết cho thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện;
đ) Cung cấp trang thiết bị làm việc, phương tiện bảo hộ cá nhân cần thiết, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ hoạt động tình nguyện; bảo đảm sức khỏe và an toàn cho thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện;
e) Chi trả tiền bồi dưỡng cho thanh niên trong thời gian hoạt động tình nguyện (nếu có);
g) Hỗ trợ hoặc thanh toán toàn bộ chi phí hoặc trợ cấp đối với các trường hợp quy định tại Khoản 6, Khoản 7 và Khoản 8 Điều 7 Quyết định này;
h) Cung cấp thông tin khi có yêu cầu cho chính quyền địa phương và các cơ quan, tổ chức liên quan trong quá trình tổ chức hoạt động tình nguyện;
i) Cấp Giấy chứng nhận tham gia hoạt động tình nguyện đối với thanh niên hoàn thành tốt nhiệm vụ tình nguyện, làm căn cứ để ưu tiên xem xét, tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động vào làm việc trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức kinh tế tại Việt Nam.
3. Người đứng đầu cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về những hành vi vi phạm của thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện.
Điều 12. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp nơi diễn ra hoạt động tình nguyện 1. Ủy ban nhân dân các cấp nơi diễn ra hoạt động tình nguyện quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 3 Quyết định này thực hiện trách nhiệm được phân công tại chương trình, đề án, dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và trách nhiệm quy định tại Điểm b và Điểm d Khoản 2 Điều này.
2. Ủy ban nhân dân các cấp nơi diễn ra hoạt động tình nguyện quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 3 Quyết định này có trách nhiệm sau đây:
a) Thông báo việc tiếp nhận hoạt động tình nguyện tại địa phương với cơ quan tổ chức hoạt động tình nguyện theo thẩm quyền; trường hợp không đồng ý phải nêu rõ lý do (về mục tiêu, phạm vi, nội dung, số lượng, thành phần thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện);
b) Tạo điều kiện, bảo đảm an ninh, trật tự để các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động tình nguyện theo đúng kế hoạch tổ chức hoạt động tình nguyện;
c) Tạm dừng hoặc chấm dứt các hoạt động tình nguyện vi phạm pháp luật hoặc không đúng với kế hoạch tổ chức hoạt động tình nguyện;
d) Báo cáo, đề xuất với cấp có thẩm quyền xử lý, giải quyết kịp thời trường hợp vi phạm pháp luật trong hoạt động tình nguyện trên địa bàn.
Điều 13. Trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương 1. Bộ Nội vụ
a) Chủ trì, phối hợp với Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức thực hiện chính sách đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên;
b) Hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện; định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá để làm cơ sở đề xuất với cấp có thẩm quyền hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo
a) Chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở giáo dục công nhận kết quả tham gia hoạt động tình nguyện của học sinh, sinh viên trong việc đánh giá, xếp loại, xét tốt nghiệp theo quy chế, quy định của pháp luật về giáo dục, đào tạo;
b) Ban hành theo thẩm quyền các hình thức biểu dương, khen thưởng đối với thanh niên trong các cơ sở giáo dục tích cực tham gia và hoàn thành tốt nhiệm vụ hoạt động tình nguyện.
3. Các bộ, cơ quan ở Trung ương và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
a) Thực hiện việc tổ chức, quản lý các hoạt động tình nguyện của thanh niên theo quy định tại Quyết định này;
b) Tạo điều kiện cho các hoạt động tình nguyện của thanh niên trong phạm vi quản lý; có cơ chế huy động thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện;
c) Hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện; định kỳ báo cáo kết quả hoạt động tình nguyện của thanh niên về Bộ Nội vụ để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ;
d) Quan tâm, chăm lo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của thanh niên; huy động các nguồn lực trong xã hội bảo đảm cho hoạt động tình nguyện của thanh niên;
đ) Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền về chính sách đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên.
Điều 14. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh 1. Tổ chức tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức của thanh niên và phát huy vai trò của thanh niên trong việc tham gia các hoạt động tình nguyện.
2. Phối hợp với các bộ và cơ quan ở Trung ương chỉ đạo, định hướng hoạt động tình nguyện của thanh niên.
3. Chỉ đạo, hướng dẫn Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các tổ chức hợp pháp khác của thanh niên quản lý, kết nối, nắm bắt thông tin, tạo điều kiện hỗ trợ thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện.
4. Hướng dẫn các cấp bộ đoàn về phương thức huy động thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện trong tổ chức của mình.
5. Khen thưởng, tôn vinh các tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động tình nguyện.
Điều 15. Điều khoản thi hành 1. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016.
2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nguồn: thuvienphapluat.vn
SỔ TAY NGHIỆP VỤ
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 03/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên, tổ chức Đoàn nội dung của Hướng dẫn 52-HD/HĐTN, ngày 20/12/2015
về hướng dẫn đoàn viên tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú, như sau: I. Về nơi cư trú và sinh hoạt Đoàn nơi cư trú: 1. Nơi cư trú: Nơi cư trú nêu tại Hướng dẫn này là nơi đoàn viên đang thường trú, tạm trú hoặc đăng ký tham gia sinh hoạt Đoàn tại địa bàn dân cư.
2. Sinh hoạt Đoàn nơi cư trú: Là toàn bộ hoạt động của đoàn viên (đối tượng tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú) tham gia với cấp bộ Đoàn ở địa bàn dân cư nhằm thực hiện trách nhiệm của đoàn viên đối với tổ chức Đoàn nơi cư trú theo quy định của Điều lệ Đoàn. Tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú bao gồm tham gia sinh hoạt và hoạt động Đoàn trên địa bàn dân cư, nơi cư trú.
II. Đối tượng tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú: - Đoàn viên là học sinh, sinh viên đang học tập tại các trường phổ thông (gồm: Trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên), trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng, đại học có trách nhiệm tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú.
- Đoàn viên là cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp; đoàn viên là công nhân, lao động làm việc trong các doanh nghiệp; đoàn viên trong lực lượng công an nhân dân tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú.
- Đoàn viên trong quân đội, trong các đơn vị chiến đấu của công an nhân dân không thuộc đối tượng điều chỉnh của Hướng dẫn này.
III. Quyền và nghĩa vụ của đoàn viên tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú: 1. Quyền của đoàn viên khi tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú: - Được tổ chức Đoàn nơi cư trú đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, được giúp đỡ và tạo điều kiện tham gia các hoạt động để phấn đấu trưởng thành.
- Được tham dự sinh hoạt, hoạt động của tổ chức Đoàn nơi cư trú và đóng góp ý kiến tại đại hội, hội nghị của Chi đoàn, được khen thưởng biểu dương khi có thành tích xuất sắc.
- Được lấy nhận xét, đánh giá về quá trình tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú.
- Được ứng cử (hoặc được giới thiệu ứng cử) vào cơ quan lãnh đạo của Đoàn ở cấp cơ sở và Chi đoàn nơi cư trú khi đã chuyển hồ sơ đoàn viên về nơi đó trước khi bầu cử. Trường hợp ứng cử (hoặc được giới thiệu ứng cử) vào chức danh Bí thư, Phó Bí thư Đoàn xã, thị trấn, phải được sự đồng ý của cấp ủy Đảng cùng cấp và Đoàn cấp trên trực tiếp; đồng thời có ý kiến đồng ý của Chi bộ nơi học tập, lao động, công tác (nếu đoàn viên là đảng viên trẻ).
2. Nghĩa vụ của đoàn viên khi tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú: - Chủ động tham gia các hoạt động do tổ chức Đoàn tại nơi cư trú tổ chức; gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân tại nơi cư trú.
- Tuyên truyền vận động thanh thiếu nhi trên địa bàn cư trú tích cực tham gia hoạt động Đoàn, Hội, Đội.
- Tuyên truyền, vận động gia đình và thanh thiếu nhi trên địa bàn thực hiện tốt chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các quy định khác tại nơi cư trú.
IV. Nội dung sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú của đoàn viên: 1. Đoàn viên tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú thông qua các nội dung: - Các hoạt động giáo dục đạo đức lối sống, lý tưởng cách mạng; tuyên truyền phổ biến các chủ trương chính sách của đảng, nhà nước, kiến thức pháp luật cho thanh thiếu niên, được thực hiện trên địa bàn dân cư;
- Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao có sự tham dự của đoàn viên, thanh thiếu niên của địa bàn dân cư;
- Các hoạt động tình nguyện phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội và đảm bảo trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng tại địa phương;
- Hoạt động chăm sóc giáo dục thanh thiếu niên, nhi đồng trên địa bàn dân cư;
- Hoạt động xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư;
- Xây dựng Chi đoàn mạnh ở địa bàn dân cư, vận động các nguồn lực xã hội một cách hợp pháp hỗ trợ hoạt động Đoàn trên địa bàn dân cư;
- Tham gia các hoạt động phối hợp của Đoàn các đơn vị khối trường học, đơn vị hành chính, sự nghiệp,...với cấp bộ Đoàn trên địa bàn dân cư, thực hiện trên địa bàn dân cư.
2. Các hình thức hoạt động, sinh hoạt Đoàn nơi cư trú trong các khối đối tượng: 2.1. Khối trường học: Đoàn viên là học sinh THPT, Trung tâm GD-TX: Ban Chấp hành Đoàn trường có trách nhiệm giới thiệu đoàn viên về tham gia hoạt động hè trên địa bàn dân cư dưới sự chỉ đạo chung của Đoàn cấp huyện (tương đương).
2.2. Khối lực lượng vũ trang: Khuyến khích các cơ sở Đoàn thuộc lực lượng vũ trang tổ chức các chiến dịch hành quân xanh, các hoạt động tình nguyện gắn với nhiệm vụ chuyên môn trên địa bàn dân cư, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
2.3. Khối công chức, viên chức: Các cơ sở Đoàn chịu trách nhiệm hướng dẫn đoàn viên của đơn vị mình tham gia sinh hoạt Đoàn nơi cư trú theo nhóm ít nhất từ 2-3 đoàn viên trở lên trên cơ sở phù hợp với điều kiện công tác, sinh hoạt, cư trú của từng đoàn viên gắn với phát huy trình độ, hoạt động chuyên môn, hỗ trợ cho hoạt động của Chi đoàn trên địa bàn dân cư.
2.4. Khối công nhân, lao động trẻ: Các cơ sở Đoàn trong khối các doanh nghiệp có trách nhiệm phối hợp với Đoàn xã, thị trấn tổ chức các hoạt động ở các khu trọ, khu dân cư tập trung nhiều đoàn viên, thanh niên công nhân, lao động trẻ gắn với các hoạt động theo hướng đồng hành với thanh niên công nhân, lao động trẻ như: hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao,...
V. Thời điểm và mức độ tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú: 1. Thời điểm tham gia: Đoàn viên tham gia hoạt động Đoàn tại nơi cư trú trong các kỳ nghỉ hè, nghỉ lễ, nghỉ tết, hoặc các ngày thứ 7, chủ nhật hoặc thời điểm thuận lợi ngoài giờ học tập, công tác.
2. Mức độ tham gia: Trong 01 năm, đoàn viên tham gia tối thiếu 02 lượt sinh hoạt tại nơi cư trú.
Trong trường hợp đặc biệt, để thuận lợi cho việc tham gia sinh hoạt Đoàn nơi cư trú, đoàn viên có quyền lựa chọn địa bàn dân cư
(không nhất thiết phải tại nơi thường trú hoặc tạm trú của mình) để tham gia sinh hoạt khi được sự đồng ý của Chi đoàn và Đoàn cơ sở trực tiếp quản lý đoàn viên đồng ý.
VI. Quy trình, thủ tục giới thiệu, tiếp nhận và tổ chức cho đoàn viên tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú: 1. Đối với Chi đoàn, Đoàn cơ sở trực tiếp quản lý đoàn viên (thực hiện việc giới thiệu). Bước 1: Chi đoàn thông báo tới đoàn viên về chủ trương tham gia hoạt động Đoàn nơi cư trú và hướng dẫn đoàn viên đăng ký địa bàn, thời điểm để tham gia.
Bước 2: Cấp Giấy giới thiệu cho đoàn viên
(giấy giới thiệu của Chi đoàn theo mẫu 01,SHĐ đính kèm, được in và đóng dấu treo của Đoàn cấp trên trực tiếp trước khi Chi đoàn ghi thông tin và chuyển cho đoàn viên). Nếu là Chi đoàn cơ sở thì trực tiếp thực hiện việc giới thiệu.
Bước 3: Chi đoàn vào sổ theo dõi, quản lý đoàn viên tham gia đăng ký hoạt động nơi cư trú và báo cáo danh sách lên Đoàn cấp trên trực tiếp. Đánh giá tình hình đoàn viên tham gia sinh hoạt Đoàn nơi cư trú
(ghi nhận xét trong Sổ đoàn viên) kết hợp trong quá trình nhận xét, xếp loại đoàn viên hàng năm.
* Lưu ý: Đối với đoàn viên học sinh trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, sinh viên các trường đại học, cao đẳng có hộ khẩu thường trú tại Thăng Bình, trong dịp nghỉ hè thì Đoàn trường chủ trì, phối hợp với Đoàn xã, thị trấn thực hiện giới thiệu đoàn viên tham gia hoạt động hè tại địa phương thay thế cho việc sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú.
2. Đối với cấp bộ Đoàn nơi tiếp nhận đoàn viên tham gia sinh hoạt nơi cư trú: Bước 1: Đoàn cơ sở địa bàn dân cư tiếp nhận giấy giới thiệu do đoàn viên chuyển trực tiếp (hoặc danh sách được chuyển giao từ cấp bộ Đoàn trực tiếp quản lý đoàn viên); tổ chức cho đoàn viên tham gia các hoạt động phù hợp với điều kiện, khả năng, sở trường gắn với nội dung, chủ đề hoạt động của đơn vị (hình thức đăng ký qua phiếu do Đoàn cấp huyện (tương đương) thiết kế);
Bước 2: Giới thiệu tham gia các hoạt động phù hợp căn cứ vào hoạt động cụ thể của các Chi đoàn trên địa bàn.
Bước 3: Vào sổ theo dõi và lập danh sách báo cáo Đoàn cấp trên trực tiếp để thống nhất quản lý.
3. Đối với Huyện đoàn:
- Ban Thường vụ Huyện đoàn xây dựng hướng dẫn triển khai đến cơ sở, tổ chức họp quán triệt chủ trương và tiến hành bàn giao, tiếp nhận danh sách đoàn viên về tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú giữa các cơ sở Đoàn trực thuộc (có biên bản bàn giao, tiếp nhận đoàn viên). Sau đó, các Đoàn cơ sở vào sổ theo dõi đoàn viên tham gia sinh hoạt, hoạt động tại nơi cứ trú.
- Đối với địa bàn có đông đoàn viên tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú … việc tổ chức cho đoàn viên tham gia sinh hoạt, hoạt động của Đoàn tại nơi cư trú sẽ do Ban Thường vụ Đoàn cấp huyện (tương đương) thực hiện. Trường hợp quy mô quá lớn (khoảng từ 1.000 đoàn viên trở lên), công việc của đoàn viên có tính đa dạng thì báo cáo lên Ban Thường vụ Tỉnh đoàn để chủ trì việc chuyển giao, tiếp nhận danh sách đoàn viên giữa các Đoàn cấp huyện (tương đương) (mẫu 2- SHĐ đính kèm).
- Đối với những nơi có điều kiện thuận lợi (đoàn viên có điều kiện tham gia tương đối tập trung, số lượng không quá lớn, thuận lợi cho việc triệu tập tham gia hoạt động,...) thì hướng dẫn tổ chức cơ sở Đoàn địa bàn dân cư có thể tổ chức cho đoàn viên tham gia sinh hoạt Đoàn nơi cư trú một cách thường xuyên thông qua các hoạt động phong trào ở địa bàn dân cư. Hình thức tổ chức có thể triệu tập đoàn viên tham gia hoạt động theo hướng luân phiên hoặc tập trung tùy theo điều kiện thực tế.
- Đối với những nơi đoàn viên không có điều kiện tham gia sinh hoạt, hoạt động thường xuyên (Đoàn khối hành chính, lực lượng vũ trang, công nhân lao động) thì hướng dẫn tổ chức cơ sở Đoàn địa bàn dân cư có thể phối hợp với các cấp bộ Đoàn có liên quan hoặc tổ chức khác để tổ chức hoạt động tại địa bàn dân cư một cách phù hợp về nội dung, tính chất và thời điểm để đoàn viên cùng tham gia sinh hoạt.
VII. Nhận xét, đánh giá đoàn viên tham gia hoạt động Đoàn tại nơi cư trú: 1. Thời điểm nhận xét, đánh giá: - Hàng năm, Chi đoàn nơi cư trú nhận xét, đánh giá đoàn viên tham gia sinh hoạt Đoàn nơi cư trú và gửi kết quả đánh giá về Chi đoàn nơi trực tiếp quản lý đoàn viên. Việc nhận xét, đánh giá phải được hoàn thành trước
tháng 4 hàng năm đối với đoàn viên khu vực trường học và trước
tháng 11 hàng năm đối với đoàn viên thuộc các khu vực khác. Ngoài ra, Chi đoàn và Đoàn cơ sở nơi cư trú có trách nhiệm nhận xét, đánh giá khi đoàn viên có đề nghị.
2. Tiêu chí nhận xét, đánh giá và xếp loại: - Tiêu chí nhận xét, đánh giá:
+ Ý thức, thái độ tham gia hoạt động của Đoàn tại nơi cư trú;
+ Mức độ tham gia hoạt động của Đoàn tại nơi cư trú;
+ Kết quả tham gia hoạt động của Đoàn tại nơi cư trú.
- Căn cứ vào các tiêu chí trên và số lần tham gia sinh hoạt Đoàn nơi cư trú, sẽ xếp loại đoàn viên sinh hoạt Đoàn nơi cư trú theo 02 mức: Đạt hoặc Không đạt. Trường hợp đoàn viên không tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú thì không tiến hành đánh giá và ghi rõ không tham gia
(nếu có yêu cầu nhận xét). Bản nhận xét, đánh giá trước khi chuyển cho tổ chức Đoàn nơi trực tiếp quản lý đoàn viên hoặc các đơn vị có liên quan phải có xác nhận của Đoàn cơ sở xã, phường, thị trấn mà đoàn viên tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú. Trường hợp phải chuyển nhận xét, đánh giá cho nhiều đoàn viên trong cùng một đơn vị có thể thực hiện bằng danh sách
(theo mẫu 3 – SHĐ đính kèm).
THANH NIÊN VÀ NGHỀ NGHIỆP
Nghệ thuật làm việc qua điện thoại Trong công việc thời hiện đại, bạn thường phải dùng đến chiếc điện thoại như một công cụ làm việc hữu hiệu. Nếu không học cách sử dụng điện thoại, công cụ này có thể “giết chết” thời gian của bạn.
Khi gọi điện thoại, hãy luôn biết rõ mình muốn nói gì. Có thể gạch đầu dòng trước những điều định nói và cần nói. Như thế bạn sẽ tiết kiệm được thời gian cho bạn và cho cả người nghe.
Điều chỉnh cách nói chuyện cho thích hợp với từng đối tượng. Những người bận rộn thường thích cách tiếp cận trực tiếp, nói ngắn gọn và hạn chế nói chuyện phiếm. Những người dễ hoà đồng thì thích nói chuyện thân mật hơn.
Hạn chế nói chuyện riêng. Nói chuyện phiếm thì vui đấy nhưng nó làm mất thời gian và gây khó chịu cho người bên kia đầu dây khi họ đang bận rộn. Bạn có thể nói chuyện qua loa về thời tiết, thời sự nhưng đừng lôi chuyện gia đình ra làm đề tài.
Hãy trả lời thẳng câu hỏi của đối tác. Tránh ậm ừ dễ tạo sự không chuyên nghiệp. Nếu bạn không biết câu trả lời, hãy nói bạn sẽ gọi cho họ sau khi đã có đáp án chính xác. Nếu bạn đưa ra một phán đoán sai lầm cho người tin tưởng bạn, họ sẽ không bao giờ tin bạn nữa.
Cuối buổi nói chuyện, hãy xác nhận lại những điều đã trao đổi. Như thế cả hai có thể xem mình đã thống nhất với nhau được điều gì để có thể đưa ra cách giải quyết thích hợp.
Khi gọi điện thoại, hãy luôn nhớ những điều sau:
- Là người chủ động gọi, nếu thực sự bạn cần họ.
- Đừng gọi quá sớm hay quá trễ.
- Những cuộc gọi không quan trọng có thể để cho trợ lý hoặc thư ký lo. Những vấn đề quan trọng nên được chính bạn nói.
- Đừng gửi lời nhắn vào hộp thư thoại trả lời sẵn. Nếu họ đi vắng có thể gọi di động hoặc gọi lại sau.
- Đừng thúc giục người đối diện nhanh chóng đưa ra câu trả lời, đừng khiến họ ám ảnh với các cuộc gọi của bạn. Điện thoại rất tiện lợi nhưng nếu bạn lạm dụng nó, đối tác và khách hàng có thể cảm thấy đang bị đeo bám.
Khi nhận điện thoại, cần lưu ý những điểm sau:
- Đừng đợi chuông reo quá 3 lần rồi mới nhấc máy. Nếu tình thế bắt buộc không thể nhấc ngay, hãy xin lỗi họ và nói lý do.
- Mọi người đều nên có trách nhiệm trả lời điện thoại. Nếu người chịu trách nhiệm trực điện thoại đi vắng, bạn hãy chủ động ra nghe và chuyển điện thoại nếu cần.
- Đừng trả lời điện thoại khi đang ăn. Người bên kia có thể nghe rõ tiếng nhai của bạn.
- Đừng nói quá to hoặc quá nhỏ.
Nguồn: VN8x dantricom.vn
THANH NIÊN VÀ PHÁP LUẬT
Trong tài liệu sinh hoạt chi đoàn số tháng 03/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 Quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm, nội dung cụ thể như sau: Chương I:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG Điều 1. Phạm vi điều chỉnh Nghị định này quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động và Luật Việc làm về chính sách việc làm công, hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên và Quỹ quốc gia về việc làm.
Điều 2. Đối tượng áp dụng 1. Người lao động theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 của Luật Việc làm.
2. Người sử dụng lao động theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 của Bộ luật Lao động.
3. Cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có liên quan đến các nội dung quy định tại Điều 1 Nghị định này.
Chương II: CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CÔNG Mục 1.
LỰA CHỌN VÀ THÔNG BÁO DỰ ÁN, HOẠT ĐỘNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CÔNG Điều 3. Lựa chọn dự án, hoạt động thực hiện chính sách việc làm công 1. Các dự án, hoạt động theo quy định tại Khoản 1 Điều 18 Luật Việc làm được lựa chọn để thực hiện chính sách việc làm công bao gồm:
a) Dự án, hoạt động bảo vệ, quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên đất, nước, rừng; phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu;
b) Dự án, hoạt động bảo tồn, phát triển văn hóa và du lịch;
c) Dự án, hoạt động xây dựng, cải tạo và bảo dưỡng: Đường giao thông, trường học, nhà trẻ, trạm y tế, chợ, công trình phục vụ nhu cầu về hoạt động văn hóa thể thao; công trình thủy lợi, tưới tiêu, đê điều; công trình cung cấp điện, nước sạch, vệ sinh môi trường;
d) Dự án, hoạt động phục vụ cộng đồng khác.
2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ; Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh); Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp huyện); Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) quyết định thực hiện chính sách việc làm công đối với các dự án, hoạt động theo quy định tại Khoản 1 Điều này.
Điều 4. Thông báo dự án, hoạt động thực hiện chính sách việc làm công 1. Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có dự án, hoạt động thực hiện chính sách việc làm công về phạm vi, nội dung công việc cần thực hiện; chất lượng, tiến độ công việc cần đạt được và nhu cầu sử dụng lao động tham gia thực hiện chính sách việc làm công.
2. Ủy ban nhân dân cấp xã niêm yết công khai tại trụ sở, các nơi sinh hoạt cộng đồng và thông báo trên các phương tiện truyền thông của cấp xã về các nội dung thông báo quy định tại Khoản 1 Điều này.
Mục 2.
THAM GIA CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CÔNG Điều 5. Đăng ký tham gia chính sách việc làm công 1. Người lao động có nhu cầu tham gia chính sách việc làm công đăng ký tham gia dự án, hoạt động quy định tại Điều 3 Nghị định này với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hợp pháp theo hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
2. Ủy ban nhân dân cấp xã lập danh sách người lao động có nhu cầu tham gia chính sách việc làm công; niêm yết công khai tại trụ sở, các nơi sinh hoạt cộng đồng và thông báo trên các phương tiện truyền thông của cấp xã.
Điều 6. Lựa chọn người lao động tham gia chính sách việc làm công Ủy ban nhân dân cấp xã phối hợp với nhà thầu (nếu có), các tổ chức chính trị - xã hội, đại diện cộng đồng dân cư hưởng lợi từ dự án, hoạt động thực hiện chính sách việc làm công lựa chọn người lao động tham gia chính sách việc làm công trong danh sách người lao động đăng ký tham gia theo thứ tự ưu tiên:
1. Các đối tượng quy định tại Khoản 2 Điều 19 Luật Việc làm.
2. Người lao động thuộc hộ gia đình hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu.
3. Người lao động cư trú hợp pháp tại địa phương nơi thực hiện dự án, hoạt động.
Điều 7. Chế độ đối với người lao động tham gia chính sách việc làm công 1. Người sử dụng lao động có sử dụng lao động tham gia chính sách việc làm công phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động và bảo đảm các chế độ đối với người lao động theo quy định của pháp luật lao động.
2. Dự án, hoạt động thực hiện chính sách việc làm công có sự tham gia của cộng đồng theo quy định của pháp luật về đấu thầu thì Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn các chế độ đối với người lao động.
Mục 3.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CÔNG Điều 8. Trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp 1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn, kiểm tra và báo cáo Chính phủ kết quả thực hiện chính sách việc làm công.
2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ chủ trì, hướng dẫn việc tổ chức thực hiện các dự án, hoạt động thực hiện chính sách việc làm công; kiểm tra và gửi kết quả thực hiện chính sách việc làm công đến Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
3. Ủy ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện các dự án, hoạt động thực hiện chính sách việc làm công trên địa bàn; kiểm tra và báo cáo kết quả thực hiện chính sách việc làm công theo hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Điều 9. Giám sát việc thực hiện chính sách việc làm công của cộng đồng 1. Cộng đồng dân cư giám sát việc sử dụng lao động và việc thực hiện các chế độ đối với người lao động tham gia chính sách việc làm công trên địa bàn.
2. Các tổ chức chính trị - xã hội tham gia giám sát việc sử dụng lao động và việc thực hiện các chế độ đối với người lao động tham gia chính sách việc làm công trên địa bàn.
Chương III: HỖ TRỢ ĐƯA NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG Điều 10. Chính sách hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng Người lao động là người dân tộc thiểu số; người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo hoặc hộ bị thu hồi đất nông nghiệp; thân nhân của người có công với cách mạng có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được hỗ trợ:
1. Hỗ trợ đào tạo nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết gồm:
a) Học phí đào tạo nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết;
b) Tiền ăn trong thời gian thực tế học;
c) Chi phí đi lại (01 lượt đi và về) từ nơi cư trú đến địa điểm đào tạo từ 15 km trở lên hoặc từ 10 km trở lên đối với người lao động cư trú hợp pháp tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Riêng người lao động thuộc các huyện nghèo được hỗ trợ thêm tiền ở và đồ dùng cá nhân thiết yếu.
2. Hỗ trợ chi phí làm thủ tục hộ chiếu, thị thực, khám sức khoẻ, lý lịch tư pháp trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo quy định của pháp luật.
3. Hỗ trợ giải quyết rủi ro trong thời gian làm việc ở nước ngoài theo quy định của pháp luật.
4. Hỗ trợ chi phí đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề trong trường hợp nước tiếp nhận yêu cầu.
5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn quy trình, thủ tục và mức hỗ trợ cụ thể đối với từng đối tượng.
Điều 11. Hỗ trợ vay vốn đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 1. Người lao động thuộc hộ nghèo, hộ bị thu hồi đất nông nghiệp và người lao động là người dân tộc thiểu số được vay vốn đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng từ Ngân hàng chính sách xã hội theo quy định của pháp luật.
2. Người lao động thuộc hộ cận nghèo, người lao động là thân nhân của người có công với cách mạng được vay vốn đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng từ Quỹ quốc gia về việc làm theo quy định tại Mục 3 Chương V Nghị định này.
Điều 12. Hỗ trợ phát triển thị trường lao động ngoài nước 1. Hỗ trợ phát triển thị trường lao động ngoài nước thông qua các hoạt động sau đây:
a) Nghiên cứu, khảo sát thị trường lao động ngoài nước;
b) Quảng bá thông tin về nguồn lao động Việt Nam;
c) Xúc tiến phát triển thị trường lao động ngoài nước.
2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn nội dung và mức hỗ trợ phát triển thị trường lao động ngoài nước.
Điều 13. Kinh phí thực hiện Nguồn kinh phí để hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được bố trí từ ngân sách nhà nước. Riêng nguồn kinh phí hỗ trợ người lao động thuộc hộ bị thu hồi đất nông nghiệp thực hiện theo quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn.
Chương IV: HỖ TRỢ TẠO VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN Mục 1.
ĐÀO TẠO NGHỀ CHO THANH NIÊN HOÀN THÀNH NGHĨA VỤ QUÂN SỰ, NGHĨA VỤ CÔNG AN, THANH NIÊN TÌNH NGUYỆN Điều 14. Đối tượng hỗ trợ đào tạo nghề Thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an, thanh niên tình nguyện hoàn thành nhiệm vụ thực hiện chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội được hỗ trợ đào tạo nghề khi đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 15 Nghị định này.
Điều 15. Điều kiện hỗ trợ đào tạo nghề Các đối tượng theo quy định tại Điều 14 Nghị định này được hỗ trợ đào tạo nghề khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Có nhu cầu đào tạo nghề trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; hoàn thành nhiệm vụ thực hiện chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội;
2. Chưa được hỗ trợ đào tạo nghề từ chính sách hỗ trợ đào tạo nghề khác có sử dụng nguồn kinh phí của ngân sách nhà nước kể từ ngày hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; hoàn thành nhiệm vụ thực hiện chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội.
Điều 16. Nội dung và mức hỗ trợ đào tạo nghề 1. Các đối tượng theo quy định tại Điều 14 Nghị định này tham gia đào tạo nghề trình độ trung cấp, cao đẳng được hỗ trợ:
a) Miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập theo quy định của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp và các văn bản hướng dẫn;
b) Vay vốn để tham gia đào tạo nghề trình độ trung cấp, cao đẳng theo quy định của chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn.
2. Các đối tượng theo quy định tại Điều 14 Nghị định này tham gia đào tạo nghề trình độ sơ cấp được cấp thẻ đào tạo nghề có giá trị tối đa bằng 12 tháng tiền lương cơ sở tại thời điểm đào tạo nghề và có giá trị sử dụng trong 01 năm kể từ ngày cấp.
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an hướng dẫn thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho các đối tượng quy định tại Điều 14 Nghị định này.
Điều 17. Kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề Nguồn kinh phí để hỗ trợ đào tạo nghề cho các đối tượng quy định tại Điều 14 Nghị định này thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
Mục 2.
HỖ TRỢ THANH NIÊN LẬP NGHIỆP, KHỞI SỰ DOANH NGHIỆP Điều 18. Hỗ trợ thanh niên lập nghiệp 1. Đối tượng hỗ trợ:
a) Học sinh các trường trung học phổ thông;
b) Thanh niên đang học tại cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp;
c) Thanh niên đã tốt nghiệp cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
2. Nội dung hỗ trợ:
a) Định hướng nghề nghiệp;
b) Cung cấp thông tin về việc làm, nghề nghiệp;
c) Đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng tìm việc và làm việc;
d) Tham gia chương trình thực tập làm việc tại doanh nghiệp, tổ chức;
đ) Cho vay ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm theo quy định của pháp luật.
3. Căn cứ tình hình kinh tế - xã hội từng thời kỳ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc hỗ trợ thanh niên lập nghiệp.
Điều 19. Hỗ trợ thanh niên khởi sự doanh nghiệp 1. Đối tượng hỗ trợ:
a) Thanh niên có nhu cầu khởi sự doanh nghiệp;
b) Thanh niên đã khởi sự doanh nghiệp.
2. Nội dung hỗ trợ:
a) Cung cấp kiến thức về pháp luật, quản trị doanh nghiệp và các vấn đề có liên quan khởi sự doanh nghiệp;
b) Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khởi sự doanh nghiệp;
c) Cho vay ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm theo quy định của pháp luật.
3. Căn cứ tình hình kinh tế - xã hội từng thời kỳ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc hỗ trợ thanh niên khởi sự doanh nghiệp.
(còn tiếp)
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (www.moj.gov.vn)
ĐỊNH HƯỚNG SINH HOẠT CHI ĐOÀN
1. Tổ chức cho đoàn viên, thanh niên (ĐVTN) ôn truyền thống lịch sử 42 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
(có đề cương tuyên truyền riêng) qua các buổi sinh hoạt chuyên đề, tọa đàm, thi tìm hiểu về lịch sử Ngày miền Nam hoàn toàn thống nhất đất nước, các thành tựu phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh… của đất nước, địa phương đơn vị từ sau giải phóng đến nay
. 2. Giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là truyền thống đoàn kết, nhân ái, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động, dung cảm trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc; các giá trị lịch sử, văn hóa của khu di tích; những phong tục tập quán tốt đẹp của cộng đồng dân tộc Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước nhân ngày Giỗ tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch).
3. Tổ chức cho đoàn viên thanh niên trong chi đoàn tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, thăm, tặng quà các gia đình chính sách, thương binh liệt sĩ, Mẹ Việt Nam anh hùng hoặc thăm viếng, chăm sóc, tu sửa nghĩa trang liệt sĩ, khu di tích tại địa phương nhân dịp kỷ niệm 42 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2017).
4. Tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 05- CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.
5. Tuyên truyền công tác chuẩn bị Đại hội Đoàn các cấp cơ sở và công tác chuẩn bị Đại hội Đoàn cấp huyện và tương đương.
TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN
Số 04 -Tháng 5/2017
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vấn đề xây dựng văn hóa, văn minh công sở trong thanh niên hiện nay Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, toàn bộ di sản tư tưởng của Người là một kho báu văn hóa của dân tộc Việt Nam. Trong đó tư tưởng của Người về văn hóa chiếm một vị trí hết sức quan trọng.
Đó là một hệ thống các quan điểm lý luận mang tính khoa học và cách mạng về văn hóa và xây dựng nền văn hóa Việt Nam. Được kết tinh và chắt lọc những giá trị cả văn hóa phương Đông, phương Tây, của truyền thống và hiện đại, của dân tộc và quốc tế.
Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có ý nghĩa vô cùng to lớn và giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Theo Người: Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được; có thực mới vực được đạo; xã hội thế nào thì văn hóa thế ấy. Nhưng mặt khác, đến lượt mình, văn hóa là động lực của sự phát triển xã hội, phát triển kinh tế; văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
Văn hóa được xây dựng và bồi đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử, nó làm nên nền tảng tinh thần của một xã hội, giữ vai trò quan trọng vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Trong rất nhiều bài nói và bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến việc phải giữ gìn và phát huy những truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng dân tộc Việt Nam được hun đúc nên qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, dũng cảm trong chiến đấu… Bên cạnh việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, biết gạn đục khơi trong, nâng cao trình độ văn hóa của Nhân dân, biết chọn lọc, sáng tạo cho phù hợp với hoàn cảnh và đặc tính của dân tộc mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tấm gương cho mọi thế hệ Việt Nam, trong đó có tuổi trẻ noi theo.
Với nhận thức là văn hóa có nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc và Nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ quan điểm
“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”,
“nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân”. Vì vậy, văn hóa cũng phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm: Vì Nhân dân phục vụ và phát huy sứ mạng của toàn dân làm văn hóa. Làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người là yêu cầu rất cao, là nhiệm vụ khó khăn và lâu dài. Chỉ khi nào được mọi tầng lớp Nhân dân, mọi tổ chức chính trị, xã hội, các đoàn thể, tôn giáo, nhà trường và gia đình… tham gia tích cực, thường xuyên, liên tục, bền bỉ thì văn hóa mới có thể thực hiện được những nhiệm vụ đã đề ra.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã và đang là định hướng lớn cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa nước ta. Nó mãi là ánh sáng soi đường cho công cuộc xây dựng và phát triển nên văn hóa nước ta.
Thanh niên là lực lượng quan trọng của mỗi dân tộc, là cánh tay phải của Đảng, là lực lượng xung kích trên mọi trận tuyến đấu tranh cũng như xây dựng. Sự phát triển của thanh niên không những quan hệ đến vận mệnh và tương lai của đất nước, của dân tộc mà còn ảnh hưởng đến tương lai của nhân loại. Như Bác Hồ đã từng căn dặn: Thanh niên là đại biểu cho tinh thần tự tôn, tự lập của dân tộc. Tinh thần tự tôn ấy truyền thụ đến các em kinh qua Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Các em phải có trách nhiệm truyền thụ tinh thần ấy cho các thế hệ mai sau.
Mục tiêu là
“tất cả vì Nhân dân phục vụ” là phương châm hành động của mỗi cán bộ trong ngành văn hóa. Để trở thành công sở văn hóa, không chỉ đơn thuần là hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch năm, hay phòng làm việc ngăn nắp, sạch đẹp… Mà điều quan trọng là hoàn thành nhiệm vụ của một công sở có trình độ chuyên môn nghiệp vụ từng bước được nâng cao, thường xuyên tự trau dồi bản thân về chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức. Cán bộ công chức của cơ quan phải có mặt đầy đủ, đúng giờ, trang phục đồng bộ, có mang phù hiệu. Thái độ giao tiếp nhã nhặn, lịch sự, tạo ấn tượng khi người dân đến giao dịch và để lại cảm giác thoải mái, dễ chịu, khi học ra về. Nét đẹp văn minh còn thể hiện trong từng công việc, trong quy định tiếp nhận hồ sơ, công khai liệt kê đầy đủ các loại giấy tờ, đúng hẹn trả lời cho người dân. Tránh tình trạng gây phiền hà, nhũng nhiễu, chờ đợi không cần thiết.
Với tinh thần học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đoàn viên thanh niên chúng ta quyết tâm học tập và noi theo tư tưởng văn hóa của Người để làm tốt công việc của người đoàn viên trên lĩnh vực văn hóa.
Nguồn Trang tin điện tử Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
DI TÍCH LỊCH SỬ TẠI THĂNG BÌNH
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 04/2017, chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn đoàn viên thanh niên, các tổ chức Đoàn về Di tích lịch sử Địa điểm Căn cứ Huyện ủy Thăng Bình Là một huyện nằm giữa tỉnh Quảng Nam, thị trấn Hà Lam là trung tâm huyện lỵ, Thăng Bình ở tọa độ 15độ 30 phút đến 15 độ 59 phút vĩ độ Bắc và từ 108 độ 7 phút đến 108 độ 30phút kinh độ Đông. Phía Bắc giáp huyện Quế Sơn và Duy Xuyên, phía Nam giáp thành phố Tam kỳ và huyện Phú Ninh, phía đông giáp biển Thái Bình Dương, phía Tây giáp huyện Tiên Phước và huyện Hiệp Đức. Huyện Thăng Bình có 22 xã, thị trấn; có tổng diện tích đất đai là 384,75km2, xã có diện tích lớn nhất là Bình Định, xã có diện tích nhỏ nhất là Bình Nguyên:7,72km2. Đất đai ở Thăng Bình chia làm nhiều vùng khác nhau: vùng ven biển chủ yếu là đất cát trắng; vùng đồng bằng trung du bán sơn địa và miền núi rừng rậm rạp,đất đai khô cằn ,bạc màu hoặc bị đá ong hóa. Hiện nay diện tích gò đồ, núi trọc chiếm 2/5 diện tích đất đai của huyện.
Về thời tiết khí hậu, Thăng Bình có 2 mùa rõ rệt trong năm. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 năm trước đến tháng 2 năm sau, mùa khô bắt đầu từ tháng 2 đến tháng 8 nên nắng nóng và mưa lớn kéo dài thường xuyên gây nên hạn hán, bão lụt làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, sản xuất của nhân dân. Thăng Bình có hơn 25 km bờ biển chạy dọc qua các xã phía Đông của huyện với một dãy đất cát trắng mênh mông, sau lưng có núi Cao Ngạn và một số núi kéo dài cả huyện ở vùng cao, bao lấy bên trong là vùng đồng bằng trung du bán sơn địa và diện tích rừng, gò đồi.
Trước kia, Thăng Bình có nhiều sông suối, có nước chảy quanh năm từ các triền núi đổ về như sông Ly Ly, sông Trườn Giang...nhưng theo năm tháng, dòng sông đổi dòng ở một số đoạn nên về mùa nắng, nước ở các suối và sông Ly Ly trở thành nguồn nước lợ.
Về giao thông, ngoài đường biển, đường sông khá thuận lợi cho việc giao thông vận tải, Thăng Bình còn nhiều đường trên bộ. Đường Quốc lộ 1A và tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy xuyên địa phận huyện; đường Quốc lộ 14E bắt đầu từ Cây Cốc (Hà Lam) lên Việt An, Tân An đến Làng Hồi (Phước Sơn) giáp đường Hồ Chí Minh nối liền với các tỉnh Tây Nguyên; đường Thanh Niên chạy dọc ven biển. Nhiều tuyến đường liên huyện, liên xã, liên thôn chạy dọc khắp huyện là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Tổ tiên của người Thăng Bình, người Quảng Nam nguyên quán từ miền Bắc vào miền Nam mở mang bờ cõi đất nước nên truyền thống đấu tranh của người dân Thăng Bình cũng là truyền thống yêu nước của người Việt Nam. Trải qua các thời kỳ chống ngoại xâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc, người dân Thăng Bình đã tham gia chiến đấu kiên cường. Trên mảnh đất thân yêu này để lại những dấu ấn rực sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, nhất là trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược.
Từ khi thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược nước ta vào cảng Đà Nẵng, biết bao thanh niên Thăng Bình đã dũng cảm chiến đấu dưới sự chỉ huy của tổng soái Nguyễn Tri Phương và nhiều tướng lĩnh khác. Khi Pháp đánh chiếm Kinh thành Huế, nhân dân Thăng Bình đã hưởng ứng phong trào Nghĩa hội- Cần vương, phong trào Duy Tân, các phong trào chống Pháp tích cực...gắn liền với các tên tuổi như: Tiểu La- Nguyễn Thành, Nguyễn Uýnh, Lê Cơ...
Sự ra đời của Đảng bộ huyện Thăng Bình: Sau khi Đảng bộ tỉnh Quảng Nam được thành lập (28-3-1930) phong trào đấu tranh của nhân dân Thăng Bình bắt đầu có bước chuyển biến tích cực hướng theo sự lãnh đạo của Đảng. Đồng chí Phạm Thân, Phó bí thư Tỉnh ủy được phân công phụ trách Thăng Bình đã tổ chức kết nạp đảng viên cho đồng chí Võ Duy Bình và đồng chí Võ Xưng; hai đồng chí được giao nhiệm vụ tuyên truyền, vận động và phát triển đảng, đánh dấu bước chuyển biến quan trọng của phong trào cách mạng trong huyện Thăng Bình dưới ngọn cờ Lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam mà trực tiếp là Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng nam.
Cuối năm 1929 đầu năm 1930 phong trào công nhân trong nước phát triển mạnh, các cuộc bãi công nổ ra khắp nơi ở các đồn điền, xí nghiệp của thực dân Pháp. Ở Thăng Bình, đêm 01-5-1930 lần đầu tiên, lá cờ đỏ búa liềm được treo trên nóc nhà Lục Giác trước cổng Phủ đường, nhiều truyền đơn cách mạng xuất hiện ở ngã tư Hà Lam, Ngọc Phô...Sau sự kiện này địch tăng cường đàn áp,khủng bố. Phong trào cách mạng ở Quảng Nam chịu nhiều tổn thất, các cơ sở Đảng ở Thăng Bình bị vỡ, các đồng chí Võ Duy Bình, Võ Xưng...bị bắt.cơ quan Tỉnh ủy bị khám xét, phá hoại. Tuy nhiên với tinh thần, ý chí kiên cường bất khuất quyết vùng lên phá bỏ gông xiềng nô lệ, giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Nhân dân Thăng Bình đã cùng cả nước đứng lên đấu tranh giành chính quyền; đến đầu năm 1945 dấy lên cao trào tiền khởi nghĩa rộng khắp cả huyện và khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân (18-8-1945) thắng lợi. Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng và do đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng phải mở rộng toàn diện, đầu tháng 11-1945 huyện ủy lâm thời Thăng Bình được thành lập.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng bộ huyện Thăng Bình tập trung lãnh đạo nhân dân xây dựng chính quyền cách mạng, ổn định tình hình chính trị, xã hội và tiếp tục kháng chiến chống thực dân Pháp. Vai trò lãnh đạo của Đảng được phát huy mạnh mẽ, Đảng bộ và quân dân Thăng Bình tuyệt đối tin tưởng vào Mặt trận Việt Minh, vào Đảng và Chính phủ, quyết tâm bảo vệ chính quyền vừa giành được.
Từ năm 1954 đến năm 1959 là thời kỳ đen tối nhất của phong trào cách mạng tỉnh Quảng Nam nói chung và huyện Thăng Bình nói riêng. Bằng chính sách “tố cộng ”,”diệt cộng”, tàn bạo, bọn tay sai Ngô Đình Diệm đã tiến hành chém giết và khủng bố đẫm máu ở Hà Lam- chợ Được ( từ ngày 04-9-1945 đến 07-9-1954) với 43 người chết và nhiều người bị thương.
Bất chấp sự hà khắc tàn bạo của bọn Mỹ - Ngụy và tay sai, nhân dân Thăng Bình đã anh dũng chiến đấu, đập tan các cuộc càn quét, tiến công tiêu diệt địch giải phóng quê hương(26-3-1975) góp phần cùng cả nước đánh tan các cuộc hành quân của mỹ giành thắng lợi vào mùa xuân 1975 bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Căn cứ Huyện ủy Thăng Bình tại thôn Linh Cang, xã Bình Phú:
Vị trí chiến lược của Căn cứ Huyện ủy Thăng Bình tại Linh Cang:
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời(02-9-1945) là một thắng lợi hết sức to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Năm 1947, khi thực dân Pháp đánh chiếm Hòa Vang, Điện bàn, Hội An, Duy Xuyên thì chiến trường Quảng Nam- Đà Nẵng lúc này hình thành hai vùng: vùng tự do và vùng tam chiếm. Thăng Bình được xem là địa bàn giáp ranh (phía Bắc giáp vùng tạm chiếm, phía Nam, phía Tây giáp vùng tự do). Với vị trí đặc thù đó, công tác thực hiện đường lối kháng chiến”Toàn dân, toàn diện, lâu dài” trên địa bàn Thăng Bình hết sức được chú trọng , Căn cứ Huyện ủy Thăng Bình đóng trên địa bàn thôn Linh Cang, xã Bình Phú được coi là Căn cứ an toàn của cả vùng Tây Thăng Bình- một hậu phương đối với chiến trường rộng lớn của tỉnh. Khắp nơi trên địa bàn xã Bình Phú, từ An Lý, Thăng Trường, Gia Hội đến vùng Đồng Linh, Phước Cang...xa xôi đều có đồng bào tản cư đến sinh sống.
Thời gian này, thôn Linh Cang xã Bình Phú trở thành địa bàn quan trọng nối liền giữa chiến trường phía Đông Bắc và tây Nam của tỉnh và con đường xuyên qua vùng Đồng Linh- Phước Cang đến Tiên Phước trở thành huyết mạch quan trọng nối liền phía Bắc Thăng Bình với phía Nam Tiên Phước góp phần rất lớn trong việc chuyển quân, liên lạc, tiếp tế cho chiến trường. Năm 1952, Mặt trận tỉnh chủ trương xây dựng nhà thương của tỉnh tại thôn Đức An để tiếp nhận thương binh, bệnh binh của chiến trường cả tỉnh về an dưỡng và điều trị.
Những sự kiện lịch sử liên quan tới di tích:
Cuối năm 1963, Đại hội Đảng bộ huyện Thăng Bình lần thứ VII họp tại nhà ông Thoại xã Bình Phú( có hình ảnh). Đây là đại hội đầu tiên của Đảng bộ từ khi có hiệp định Giơ-ne-vơ. Đại hội quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát động quần chúng nổi dậy, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, củng cố, mở rộng vùng giải phóng.
Tháng 02-1964, cơ quan Huyện ủy và cán bộ Tỉnh ủy về đóng chân ở Linh Cang để hoạt động . Đây là điều kiện thuận lợi cơ bản của phong trào cách mạng Bình Phú trong việc tiếp thu tinh thần chỉ đạo của Đảng trong việc xây dựng phong trào và phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh. Nơi đây được coi là Căn cứ an toàn của Huyện ủy Thăng Bình, các cơ quan đóng tại đây gồm: Văn phòng Huyện ủy, Hội trường, bếp ăn, Huyện đội, Cơ quan Cơ yếu, Công Binh, Thông tin, Bệnh viện huyện và Bệnh viện Quân khu 40(năm 1965)...
Thời gian đầu, các cơ quan thuộc Huyện ủy đóng tại các gia đình cơ sở cách mạng như: Nhà các ông Ba Lũy và ông Hoan, sau đó đóng tại nhà bà Giày sát chân đồi Đá mọc; thôn Đức An đóng tại nhà bà Mai, ông cả Khuê,ông Đông...); thôn Phước Hà...nhất là khi ác liệt, nơi làm việc của cơ quan huyện có lúc dời lên thôn Cao Ngạn. Cơ quan cơ yếu của Quân khu 5 đóng tại khu căn cứ (nhà ông Võ Hỷ còn gọi là ông Hiệu), Công binh, Thông tin...sau đó chuyển đến Hố Dâu; cơ quan Huyện đội đóng tại nhà các ông Trương Tự, bà Ban, ông Hiền; tỉnh đội đóng tại đồng Bàn Cờ.
Mặc dù cơ quan Huyện ủy có sự di chuyển nơi làm việc tại nhiều nơi, nhưng tại địa điểm thôn Đồng Linh là nơi đóng lâu nhất của cơ quan Huyện ủy Thăng Bình và cũng tại đây Huyện ủy Thăng Bình đưa ra nhiều quyết định, chỉ thị quan trọng để kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến của quân và dân toàn huyện Thăng Bình đi đến ngày toàn thắng 30/4/1975
Tháng 12/1964, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ VI họp tại thôn Đồng Linh(Linh Cang), xã Bình Phú, huyện Thăng Bình. Đại hội bầu Ban Chấp Hành Đảng bộ Quảng Nam gồm 15 ủy viên, Ban Thường vụ gồm 5 ủy viên, do đồng chí Vũ Trọng Hoàng làm Bí thư, đồng chí Đào Đắc Trinh làm Phó bí thư. Ban thường vụ gồm các đồng chí : Vũ Ngọc Hoàng, Đào Đắc Trinh, Hoàng Minh Thăng, Hoàng Tuấn Nhã và Hoàng Nguyên Trường. Tỉnh ủy viên gồm các đồng chí: Lê Hà, Trần Kim Anh, Hồ Truyền, Trương Trịnh, Nguyễn Cúc, Phạm Xân Thâm, Hà Sang, Nguyễn Thành, Võ Quỳnh và Ngô Hiên.(Sdd lịch sử Đảng bộ Quảng Nam- Đà Nẵng 1930-1975, NXB CTQG, HN 2006, trang 458).
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ hai tỉnh triển khai thực hiện đồng thời với chủ trương của Khu ủy mở chiến dịch Xuân 1965 lấy tên “chiến dịch Nguyễn Văn Trỗi” trên chiến trường toàn Khu. Quảng Nam là trọng điểm của chiến dịch này, do đó, Khu tăng cường cho Quảng nam một trung đoàn chủ lực. Theo kế hoạch, chiến dịch tiến công địch bằng sức mạnh tổng hợp vũ trang, chính trị và binh vận; được phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và quân dân du kích; giữa tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng tại chỗ; phối hợp giữa hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Đà.
Tháng 9-1967, địch tổ chức cuộc hành quân liên kết 112, huy động nhiều bộ binh, pháo binh, máy bay chiến đấu tham gia. Ở Bình Phú, địch dùng trực thăng HU1A và HU1B đổ quân xuống các cao điểm: đồi Đá Mọc, đồi Đá Núi, đồi 62... Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, phối hợp với bộ đội chủ lực đóng chân trên địa bàn, lực lượng du kích xã Bình Phú đã liên tục phản kích, đánh bại các cuộc hành quân, tiêu hao một số lượng lớn sinh lực địch thu nhiều vũ khí...
Lệnh tiến công và nổi dậy mùa xuân Mậu Thân 1968, từ Căn cứ Linh Cang, Huyện ủy Thăng bình chỉ đạo lực lượng vũ trang các xã Bình Sa, Bình Hải, Bình Triều, Bình Tung, Bình Tú, bình Quế gồm 3.873 người tiến về phá công sở, diệt ác ôn.
Với tinh thần anh dũng, mưu trí trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Đảng bộ và nhân dân Bình Phú đã được Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba (có hình kèm). Đó là tiền đề quan trọng để nhân dân Bình Phú cùng với nhân dân toàn miền Nam tiếp tục đứng dậy đấu tranh giành thắng lợi toàn diện trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Đầu năm 1969, Nich Xơn chủ trương chuyển hướng chiến lược “Phi Mỹ hóa” của Giôn Xơn thành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, “Phi Mỹ hóa chiến tranh”, Căn cứ Huyện ủy Thăng bình tại thôn Linh Cang, xã Bình Phú được xác định là địa bàn chiến lược của huyện Thăng Bình nói riêng và chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng nói chung. Trong giai đoạn này, cũng là chiếc nôi cách mạng của chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng, che giấu các cơ quan lãnh đạo của Đảng, nơi tập kết của các lực lượng vũ trang. Vì vây, địch đã tăng cường về mọi mặt để nhằm bình định tình hình.
Đầu năm 1969, Đại hội Đảng bộ huyện Thăng Bình lần thứ VIII tổ chức tại Hố Lửa, Bình Phú. Cuối năm 1969, địch cắm 17 chốt, dồn dân vào 13 khu ấp. Vùng giải phóng phía Tây chỉ còn một ít dân, chủ yếu là nhân dân ở các thôn Đồng Linh, thôn Phước Cang, Phước Hà, Cao ngạn, Nam Vinh Huy.
Tối ngày 13-3-1975, tại Căn cứ Huyện ủy Thăng Bình, mặt trận giải phóng Quảng nam đã tổ chức lễ xuất quân tiến về vùng Đông. Đồng chí Hoàng Minh Thắng, Bí thư Đảng ủy Mặt trận đã trao cờ quyết thắng cho đồng chí Hoàng Minh Năm( Năm Lựu) và cán bộ chiến sĩ vũ trang của huyện, của tỉnh tham gia cánh giải phóng vùng Đông Thăng Bình, Quảng Nam. Ngay trong đêm 13-3-1975 đến sáng ngày 14-3-1975, lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với tiểu đoàn 72 và tiểu đoàn 11 bộ đội địa phương tỉnh tấn công tiêu diệt các chốt điểm: Đồi 59, Gia Hội, Gò Dài...ở Bình Phú, địch đã bị lực lượng du kích địa phương và lực lượng tiểu đoàn 72 kiên quyết chặn đánh, tiêu diệt một bộ phận, buộc địch co cụm lại và tìm đường rút chạy. Sau khi giải phóng hoàn toàn huyện lỵ và các xã vùng trung Thăng Bình. Sáng ngày 26-3-1975, trước khí thế tấn công dồn dập của ta, lực lượng ngụy quân, ngụy quyền ở Hà Lam bỏ chạy. Chiều ngày 26-3-1975 quân ta tiến vào tiếp quản quận lỵ, giải phóng hoàn toàn huyện Thăng Bình.
Nguồn: Từ Cổng thông tin Điện tử Thăng Bình
THEO DÒNG LỊCH SỬ
Những ngày đáng nhớ trong tháng 5: - 01/5/1886: Kỷ niệm Ngày quốc tế Lao động
- 07/5/1954: Kỷ niệm Ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ
- 09/5/1945: Kỷ niệm Ngày Chiến thắng chủ nghĩa Phát –xít
- 15/5/1941: Kỷ niệm Ngày thành lập Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh
- 19/5/1890: Kỷ niệm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh
- 19/5/1941: Kỷ niệm Ngày thành lập mặt trận Việt Minh
-------------------
07/5/1954: Chiến thắng Điện Biên Phủ Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ớ phía Tây vùng rừng núi phía Bắc. Đây là một căn cứ quân sự rất thuận lợi. Thực dân Pháp đã lấy căn cứ này chiến lược cơ động.
Trong chiến dịch Thu Đông năm 1953- 1954, lực lượng địch tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bao gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 03 tiểu đoàn công binh, 01 đại đội xe tăng, 01 đại đội xe vận tải có khoảng 200 chiếc và một phi đội không quân thường trực 14 chiếc. Số quân lính địch là 16.200 tên, chúng bố trí 49 cứ điểm thành 08 cụm, mỗi cụm là một hệ thống hoả lực nhiều tầng. 08 cụm cứ điểm chia làm 03 phân khu, phân khu trung tâm gồm 2/3 lực lương ở ngay giữa Mườn Thanh. Sau 05 ngày chiến đấu ta đã tiêu diệt gọn 02 cứ điểm kiên cố vào bậc nhất là Him Lam va Độc Lập, sau đó làm tan rã thêm 01 tiểu đoàn địch và tiêu diệt tiểu đoàn Bản Kéo, ta diệt và bắt sống 2.000 tên địch, 26 máy bay bị phá huỷ, mở thông cửa vào trung tâm tập đoàn cứ điểm, uy hiếp sân bay Mường Thanh.
17h30’ ngày 30/4/1954, ta mở đợt tấn công thứ 02. Cuộc chiến trên đồi A1 diễn ra hết sức gay go, ác liệt. Hai bên giằng co từng tất đất. Đến ngày 4/4 mỗi bên chiếm giữ một nửa đồi A1.
Đánh vào khu Đông ta diệt 2.500 tên địch, chiếm lĩnh phần lớn các cao điểm. Quân đội viễn chinh Pháp đã tập trung hầu hết máy bay chiến đấu, máy bay vận tải ở Đông Dương cho mặt trận. Đế quốc Mỹ chi viện cho thực dân Pháp gần 100 máy bay oanh tạc chiến đấu và gần 50 máy bay vận tải; đồng thời tổ chức diễn tập “đổ bộ ào ạt vào Đông Dương”.
Đêm 01/5/1954 ta mở đợt tấn công thứ 03, quân ta đánh chiếm các cứ điểm còn lại phía Đông và phía Tây, bẻ gãy cuộc phản kích của địch. Đêm 03/5/1954, bộ đội ta chỉ cách sở chỉ huy của địch 300m.
17h30’ ngày 07/5/1954, những trận pháo kích của bộ đội ta nhắm thẳng vào sở chỉ huy địch. Tướng Đờ-cat-tơ-ri và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm của địch bị bắt sống. Gần 01 vạn quân địch nhảy ra khỏi hầm xin hàng. Đêm đó ta tấn công bắt sống toàn bộ quân địch ở phân khu Nam.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu cực kỳ anh dũng, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ta tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi và phá huỷ 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí, kho xăng, đạn dược, quân trang quân dụng.
Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi chín năm kháng chiến chống Pháp xâm lược. “Đã được ghi vào lịch sử như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa ở thế kỷ 20 và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc” (Lê Duẩn).
15/5/1941: Ngày thành lập Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh Từ năm 1925, sau khi sáng lập ra Việt Nam Thanh Niên cách mạng đồng chí hội - tiền thân của Đảng, Bác Hồ đã chỉ thị về nước, lựa chọn một số thanh niên ưu tú đưa ra nước ngoài đào tạo. Trong số 08 thanh thiếu niên lúc đó được Bác Hồ đích thân dạy dỗ có Lý Tự Trọng. Sau này anh đã hi sinh vì sự nghiệp cách mạng. Khi sáng lập ra tổ chức Đoàn, Đảng đã giao trách nhiệm lịch sử cho Đoàn trực tiếp phụ trách chỉ đạo các tổ chức thiếu niên, nhi đồng.
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng Sản Đông Dương lần I (tháng 01/1935) ghi rõ: “Đoàn phụ trách tổ chức Hồng nhi đoàn, chỗ nào có chi bộ, Đoàn phải lập ra Hồng nhi đoàn, những đoàn viên dưới 16 tuổi nhất luận phải đưa qua Hồng nhi đoàn”.
Ngày 08/02/1941 sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Bác Hồ đã về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng 5/1941 hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 đã họp và ra nghị quyết quan trọng đến vận mệnh nước nhà. Hội nghị đã chủ trương thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh bao gồm nhiều tổ chức yêu nước.
Ngày 15/5/1942, theo chỉ đạo của Đảng, tổ chức Đội Thiếu Niên Tiền Phong và Đội Nhi Đồng cứu quốc đã được thành lập tại vùng Pắc Pó (Cao Bằng) do Đoàn Thanh Niên Cứu Quốc (nay là Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh) trực tiếp phụ trách. Ngày 15/5/1941 đã được ban chấp hành Trung ương Đảng đồng ý lấy ngày chính thức thành lập Đội.
Từ ngày thành lập đến nay, Đội đã qua nhiều lần đổi tên. Sự kiện đổi tên có ý nghĩa nhất là sau khi Chủ Tịch Hồ Chí Minh qua đời, thiếu nhi cả nước, Ban chấp hành Trung ương Đảng trong phiên họp ngày 30/01/1970 đã cho phép Đoàn Thanh niên, Đội thiếu niên được mang tên Bác.
19/5/1941 thành lập mặt trận việt minh Tháng 5 năm 1941, trước những thay đổi mạnh mẽ của tình hình trong nước và những biến động to lớn trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Đảng ở Khuổi Nậm, Pác Bó (Cao Bằng) quyết định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng - khẳng định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu đó, Hội nghị đã quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) nhằm tập hợp và đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các dân tộc, tôn giáo, các giới… tham gia Mặt trận.
Có thể nói, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh là một chủ trương hết sức sáng suốt của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Nhận định về tình hình cách mạng nước ta lúc đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định:
“Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, đòi hỏi Đảng ta phải tập hợp, đoàn kết được mọi lực lượng trong xã hội, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc vào một mặt trận dân tộc thống nhất. Ngày 19/5/1941, Mặt trân Việt Minh đã ra đời. Điều lệ của Mặt trận Việt Minh ghi rõ: liên hiệp tất cả các tầng lớp Nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước. Kết nạp từng đoàn thể không cứ đảng phái, đoàn thể nào của người Việt Nam hay của các dân tộc thiểu số sống trong nước Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tôn giáo và xu hướng chính trị, để cùng nhau đánh đuổi Nhật - Pháp, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.
Với Cương lĩnh chính trị đúng đắn của mình, chỉ sau một thời gian ngắn, Mặt trận Việt Minh đã phát triển nhanh chóng, từ miền núi đến miền xuôi, từ nông thôn đến thành thị, thu hút đông đảo các giai tầng xã hội tham gia Mặt trận và đã góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945.
Mặt trận Việt Minh đã trở thành biểu tượng sáng ngời của khối đại đoàn kết toàn dân, của tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất và để lại cho Đảng ta những bài học quý báu, được Đảng ta vận dụng một cách linh hoạt, hiệu quả trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua hoạt động của Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (1946), Mặt trận Liên- Việt (1951), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955), Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1960) và Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình miền Nam Việt Nam (1969)…
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hôm nay, vấn đề đại đoàn kết toàn dân vẫn là một vấn đề mang tính thời sự và có ý nghĩa vô cùng to lớn. Báo cáo của Ban Chấp hành Trưng ương Đảng khoá IX tại Đại hội X của Đảng đã khẳng định: Đại đoàn kết các dân tộc cần lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp Nhân dân ở trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài; xoá bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích dân tộc; đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, giữ gìn sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội vì tương lai tươi sáng của dân tộc.
Với chính sách đúng đắn đó, chúng ta tin tưởng rằng, khối đại đoàn kết toàn dân, mà nòng cốt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ ngày càng được tăng cường và củng cố nhằm tập hợp, động viên mọi tầng lớp Nhân dân Việt Nam, phát huy mọi nguồn lực để chiến thắng đói nghèo và lạc hậu, phấn đấu thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm 2006- 2010, để sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển trước những khó khăn và thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nguồn lichsuvietnam.vn
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC DÀNH CHO THANH NIÊN
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 04/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên, thanh niên, các tổ chức Đoàn Quyết định số 121/2009/QĐ-TTg, ngày 09/10/2009 của Thủ Tướng Chính phủ về cơ chế hoạt động của các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Quốc phòng và chính sách hỗ trợ bộ đội xuất ngũ học nghề Điều 1. Cơ chế hoạt động của các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Quốc phòng
Các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Quốc phòng được thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập như các cơ sở dạy nghề của các Bộ, ngành Trung ương quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ.
Điều 2. Chính sách hỗ trợ bộ đội xuất ngũ học nghề
1. Bộ đội xuất ngũ có nhu cầu học nghề được Nhà nước hỗ trợ một lần để học một nghề.
2. Đối với trường hợp bộ đội xuất ngũ học nghề trình độ trung cấp, cao đẳng.
a) Được học nghề theo cơ chế đặt hàng đối với các cơ sở dạy nghề theo quy định tại Quyết định số 39/2008/QĐ-TTg ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế, đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước;
b) Được vay tiền để học nghề theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27 tháng 9 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên.
3. Đối với trường hợp bộ đội xuất ngũ học nghề ở trình độ sơ cấp
a) Được cấp “Thẻ học nghề” có giá trị tối đa bằng 12 tháng tiền lương tối thiểu chung tại thời điểm học nghề và có giá trị sử dụng trong 01 năm kể từ ngày cấp thẻ. “Thẻ học nghề” sử dụng không đúng quy định sẽ bị thu hồi và xử lý theo quy định của pháp luật;
b) Nhà nước thanh toán chi phí đào tạo cho cơ sở dạy nghề căn cứ vào “Thẻ học nghề”, chi phí đào tạo thực tế của nghề đã học và chứng chỉ học nghề đã cấp cho học viên nhưng không cao hơn giá trị của “Thẻ học nghề”. Trường hợp chi phí đào tạo của nghề học cao hơn giá trị của “Thẻ học nghề” thì người học tự chi trả phần chênh lệch cho cơ sở dạy nghề.
Điều 3. Kinh phí thực hiện
Nguồn kinh phí để thực hiện điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 2 của Quyết định này được bố trí trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Quốc phòng.
Điều 4. Tổ chức thực hiện
1. Bộ Quốc phòng có trách nhiệm
a) Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính hướng dẫn các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Quốc phòng thực hiện Điều 1 của Quyết định này;
b) In, cấp và quản lý “Thẻ học nghề”;
c) Hướng dẫn các cơ sở dạy nghề cho bộ đội xuất ngũ xây dựng mức chi phí đào tạo cho từng nghề, từng cấp trình độ theo quy định;
d) Quy định trình tự, thủ tục về: đăng ký học nghề, cấp “Thẻ học nghề” cho bộ đội xuất ngũ; tổ chức đấu thầu đặt hàng dạy nghề; thanh quyết toán kinh phí hàng năm cho các cơ sở dạy nghề theo quy định tại điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 2 của Quyết định này;
đ) Tổ chức dạy nghề cho bộ đội xuất ngũ thông qua các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Quốc phòng và các cơ sở dạy nghề khác thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo quy định tại Quyết định này;
e) Tổng hợp dự toán kinh phí dạy nghề cho bộ đội xuất ngũ hàng năm gửi Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
g) Hàng năm, tổ chức tự kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện chính sách hỗ trợ bộ đội xuất ngũ học nghề gửi Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm
Chủ trì, phối hợp với các Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Quốc phòng kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện chính sách hỗ trợ bộ đội xuất ngũ học nghề; tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
3. Bộ Tài chính có trách nhiệm
a) Tổng hợp dự toán ngân sách dạy nghề cho bộ đội xuất ngũ hàng năm trình Chính phủ;
b) Phối hợp với Bộ Quốc phòng hướng dẫn các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Quốc phòng thực hiện Điều 1 của Quyết định này;
c) Phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Quốc phòng kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện chính sách hỗ trợ bộ đội xuất ngũ học nghề.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm
a) Phối hợp với Bộ Tài chính cân đối ngân sách hàng năm đảm bảo kinh phí hỗ trợ thực hiện chính sách hỗ trợ bộ đội xuất ngũ học nghề;
b) Phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện chính sách hỗ trợ bộ đội xuất ngũ học nghề.
Điều 5. Hiệu lực thi hành
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 23 tháng 11 năm 2009.
Điều 6. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nguồn Báo điện tử Chính phủ (http:vanban.chinhphu.vn
MÔ HÌNH- KINH NGHIỆM
Làm giàu từ nấm linh chi
Bắt tay vào trồng nấm từ năm 2007, anh Nguyễn Chí Thành, thanh niên 30 tuổi (ngụ tại ấp 4, xã Tân Lập, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước) đã sở hữu cho mình 3 trại trồng nấm linh chi với diện tích 5000 m2, thu nhập bình quân hàng năm lên đến hơn 01 tỷ đồng.
Khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng
Sinh ra và lớn lên ở huyện Kinh Môn (tỉnh Hải Dương), lên 9 tuổi anh theo cha mẹ vào tỉnh Bình Dương sinh sống. Không may mắn như các bạn đồng trang lứa, học hết lớp 12, vì hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, anh Thành phải đi làm công nhân ở Nông trường Cao su Đồng Sen (xã An Bình, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương). Cuộc sống mưu sinh vất vả khiến anh không ngừng suy nghĩ về ước mơ thay đổi cuộc đời; và rồi trong một lần tình cờ anh đọc được thông tin trên báo về việc trồng nấm bào ngư, nấm rơm mang lại nguồn thu nhập cao.
Với suy nghĩ đó, anh Thành đã xin nghỉ việc để đi học trồng nấm. Ban đầu, anh tìm hiểu qua sách báo và anh Thành đã chọn một trại nấm ở huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước để xin vào vừa làm, vừa học hỏi kinh nghiệm. Sau 2 tháng làm việc tại đây, anh Thành đã sớm nắm bắt được kỹ thuật làm nấm nên anh trở về nhà tại xã Tân lập, huyện Đồng Phú để thực hiện ước mơ làm giàu từ nấm. Với thời gian 02 tháng không phải là dài cho một thanh niên 20 tuổi muốn lập nghiệp, thế nhưng anh đã có một khởi đầu khá suôn sẻ.
Với số vốn vay 7 triệu đồng từ tổ chức Đoàn, anh dựng một trại nhỏ có diện tích hơn 30m2 với 3000 bịch phôi nấm bào ngư lấy meo giống từ TP. Hồ Chí Minh. Trải qua 10 ngày cần mẫn chăm sóc và hồi hộp chờ đợi, cuối cùng anh đã thu được những cây nấm bào ngư đầu tiên mang ra chợ bán và thu được tiền lời là 12 triệu đồng sau 3 tháng. Phấn khởi với thành quả đạt được, anh Thành tiếp tục vay Ngân hàng chính sách xã hội 50 triệu đồng qua Dự án “Thanh niên sản xuất kinh doanh” cộng với tiền lời của vụ đầu mua thêm lò hấp công suất 600 bịch nấm/ngày, một số thiết bị và mở rộng diện tích trại nấm lên 200m2. Theo đó, anh trồng thêm nấm rơm, nấm mèo, nấm linh chi và mang lại thu nhập khá ổn định. Khi lượng khách hàng mua nấm ngày một tăng, anh tập trung thời gian nghiên cứu chuyên sâu về phương pháp tăng thành phần dược tính của nấm Linh Chi và quyết định nâng công suất lên 1.500 bịch/ngày.
Cho đến năm 2010, anh gặp phải một biến cố lớn khi mua đất mở rộng khu nuôi trồng, phòng nghiên cứu giống và chuyển qua sản xuất duy nhất một loại nấm linh chi 10.000 bịch/ngày. Kết quả toàn bộ số phôi bị hỏng và kéo dài liên tục 2 tháng, thiệt hại lên đến hơn 2 tỷ đồng. Đối mặt với thất bại đầu đời, anh chia sẻ: “Khoảng thời gian đó anh bị khủng hoảng trầm trọng, nhưng vì quá yêu nghề trồng nấm, anh quyết định không bỏ cuộc mà tiếp tục nghiên cứu, tìm cho ra nguyên nhân phôi bị hỏng và phát hiện công đoạn hấp bịch nấm bị sai kỹ thuật. Từ đó, anh vay mượn thêm bạn bè để đầu tư làm phôi nấm mới và kết quả sau những nổ lực, cố gắng của bản thân, anh thu được số lượng lớn nấm cho ra thị trường nhưng cũng gặp không ít khó khăn do người Việt Nam chuộng nấm linh chi nước ngoài”.
Xây dựng thương hiệu “Nấm linh chi trường thọ”
Sau 10 năm kiên trì theo đuổi với tình yêu trồng nấm, trại nấm linh chi của anh hiện tại thu hoạch được 18 tấn/năm, cung cấp cho các đại lý và Công ty dược trên toàn quốc với thương hiệu “Nấm linh chi trường thọ”. Thành công lớn nhất của anh đó là nghiên cứu ra được cây nấm linh chi thuần chủng có hàm lượng dược tính cao ở 7 thành phần chống ung thư Beta-glucan, selen, adenosine, polysacc-harides, triterpenoid và đặc biệt là thành phần Germanium cao gấp 10 lần nhân sâm.
Chia sẻ về kỹ thuật trồng nấm, anh Thành cho biết: “Nguyên liệu làm phôi nấm nên chọn mùn cưa của cây cao su, trộn với vôi và đảm bào độ ẩm đạt từ 60% - 70%; lò hấp cần được khử trùng với nhiệt độ 1000C trong vòng 12 tiếng; khu cấy mô phải đảm bảo đạt chuẩn với yêu cầu kín gió và có thiết bị để tiêu diệt bào tử nấm dại; khu ủ tơ và nuôi trồng phải thông thoáng, nhiệt độ luôn giữ mức từ 25 - 300C và quan trọng nhất là chủng giống phải đạt chất lượng thuần chủng”.
Hiện tại, anh đang đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu về khoa học với trường Đại học Nông Lâm (TP.Hồ Chí Minh) về nguồn gen giống nấm thuần chủng, phương pháp giữ nguyên hương vị nấm và nâng cao dược tính của cây nấm; đồng thời tăng cường sản xuất trà, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng chiết xuất từ nấm linh chi. Dự định sắp tới, anh sẽ đầu tư mở rộng sản xuất, mua thiết bị chế biến trà túi lọc, máy cắt nấm, máy chiết xuất dược liệu, hướng đến xây dựng thương hiệu “Nấm linh chi trường thọ” chất lượng, cung cấp cho người tiêu dùng trong và ngoài nước. Tâm sự với chúng tôi, anh cho biết có một mong muốn người Việt Nam ai cũng được dùng nấm linh chi Trường Thọ. Với thành phần dược tính mạnh, những bệnh nan y sẽ được đẩy lùi, người Việt Nam sẽ khỏe mạnh hơn, góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam giàu đẹp.
Không chỉ tạo việc làm cho hơn 20 lao động tại địa phương, anh Thành còn truyền đạt kinh nghiệm cho bà con Nhân dân trong xã về kỹ thuật trồng nấm để mở trại trồng nấm bào ngư, nấm rơm, góp phần phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo và ổn định cuộc sống; không những thế, sắp tới anh còn phối hợp với Tỉnh Đoàn Bình Phước hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp trong Dự án “Người Việt Nam khỏe và đẹp hơn với nấm linh chi”, góp phần giải quyết việc làm và mang lại thu nhập ổn định cho thanh niên trong toàn tỉnh.
Nguồn: thanhgiong.vn
THANH NIÊN VÀ NGHỀ NGHIỆP
Nguyên nhân thật sự khiến khởi nghiệp thất bại Bạn có một ý tưởng, cho dù nó thông minh, độc đáo và hấp dẫn đến thế nào thì vẫn chưa đủ. Khác biệt giữa thành công và thất bại ít quan hệ đến ý tưởng mà liên quan nhiều đến những con người mang ý tưởng đó vào cuộc sống.
Quá trình thực hiện là tất cả Không ai có được một ý tưởng hoàn hảo ngay từ đầu. Sau hết thì thành công là kết quả của vô số khởi động, điều chỉnh, thói quen tốt và nỗ lực hợp tác.
Vậy thì tại sao nhiều người khởi nghiệp lại thất bại? Đó không hẳn là vì ý tưởng của họ tồi, dù đôi khi một ý tưởng có thể què quặt, “không có chân”.
Họ không biết lao động chăm chỉ thật sự là như thế nào Gary Vaynerchuk, nhà khởi nghiệp hàng loạt, tác giả và diễn giả thành công người Mỹ đã nói trong nhiều cuộc phỏng vấn rằng anh thiếu niềm tin vào những người khởi nghiệp đến từ nền tảng gia đình “có điều kiện”, nhiều đặc quyền hoặc tốt nghiệp từ trường tư thục ưu tú và muốn “chơi trò khởi nghiệp kinh doanh”. Lớn lên trong một môi trường như thế, họ nhận được rất nhiều, nhưng cũng có thể bỏ lỡ rất nhiều – đó là cảm giác phải chiến đấu cho điều mà họ muốn trong cuộc đời.
Khởi nghiệp không giống với trường học. Nó không cho bạn những bài tập được định nghĩa rõ ràng và thước đo cụ thể cho thành công. Đó là những thứ mà bạn phải mang lại cho chính mình. Nhiều người khởi nghiệp thất bại vì lý do này và chỉ vì lý do này: họ không thể định nghĩa những thước đo thành công của họ. Không chỉ gặp khó khăn trong nỗ lực định nghĩa những thước đo này, họ cũng bị sốc vì “khối lượng” nỗ lực cần phải có để đạt được chúng.
Họ không biết cách để “nôn nóng một cách kiên nhẫn” Cụm từ này thể hiện sự cân bằng giữa tham vọng và nhẫn nại, khát khao và hài lòng. Thường thì mọi người nghĩ chỉ có thể có cái này hoặc cái khác. Nhưng không hẳn là vậy. Điểm cân bằng là “nôn nóng một cách kiên nhẫn”. Bạn phải ý thức rằng cần có thời gian để đạt được những điều lớn lao và sẵn lòng bước đi trên con đường dài, đồng thời đủ nôn nóng, thôi thúc để không bao giờ chịu chấp nhận nguyên trạng. Bạn mong muốn ăn mừng chiến thắng và đẩy mình tiến về thắng lợi kế tiếp.
Họ theo đuổi những gì phổ biến, thay vì tập trung vào cái mà họ giỏi Mở nhà hàng vì thích pizza nhưng lại không biết cách điều hành một nhà hàng sinh lãi? Và còn nhiều ví dụ khác nữa.
Là một doanh nhân khởi nghiệp, bạn không bao giờ nên hỏi “Mọi người muốn gì?”. Câu hỏi của bạn nên là “Điều gì mà tôi biết nhiều hơn bất cứ người nào khác và tôi đang bỏ lỡ thị trường nào mà mọi người sẽ cần nó?”.
Đừng chạy theo xu hướng. Thay vào đó, hãy đầu tư nhiều vào chính bạn và những gì mà bạn xuất sắc.
Họ chỉ có một mình Khởi nghiệp không phải là môn thể thao cá nhân. Những người phải vất vả chống đỡ nhất có vẻ là những người chần chừ chia sẻ với người khác nhất – dù là chia sẻ khối lượng công việc, hoặc cổ phần, hoặc thậm chí là mạng lưới quan hệ.
Không có gì to lớn mà chỉ một mình bạn có thể đảm đương hết. Ngay cả khi bạn đang sở hữu toàn phần những gì mà bạn đang xây dựng thì bạn vẫn cần người khác. Bạn cần ai đó để thiết kế, phát triển hoặc sản xuất nó. Và một khi xử sự với người khác như “hàng hóa” thay vì là đối tác giá trị thì cũng là lúc tự đưa mình đến thất bại thậm chí trước cả khi bắt đầu.
Không thể nhận ra điều mà họ không biết Đây có thể là một nguyên nhân hàng đầu cho sự thất bại trong khởi nghiệp.
Ngay cả khi bạn có nhiều năm kinh nghiệm trong ngành, giây phút mà bạn nghĩ rằng mình có tất cả câu trả lời thì cũng là lúc bạn dừng lắng nghe. Và khi bạn dừng lắng nghe, bạn dừng học hỏi, nhận thức của bạn bị che mờ và bạn bắt đầu ra quyết định dựa trên những giả định.
Hãy luôn dè chừng những gì mà bạn không biết. Và khi bạn tìm ra điều gì đó, đừng tự đặt mình ở tư thế “kẻ bề trên”. Hãy ngồi xuống. Hãy khiêm tốn. Bạn sẽ phát triển và học nhanh hơn với cách đó.
Họ không ở trong “làn đường của họ” Một nhà sáng lập không có kinh nghiệm về sáng tạo lại thích ý kiến về chuyện này.
Ở trong làn đường của bạn cũng chính là một kỹ năng. Điều đó có nghĩa là sẵn sàng bước sang một bên và để người khác có kiến thức và kinh nghiệm hơn lái xe, như thế bạn có thể duy trì tốt trách nhiệm chính của bạn.
Ngay khi một nhà khởi nghiệp cố đội lên đầu mọi chiếc mũ, họ bắt đầu bước xuống một lối đi nguy hiểm.
Họ không thể đảm đương trách nhiệm Sự thật thì nhiều người muốn danh xưng “giám đốc điều hành” hay “nhà sáng lập” và thích ý tưởng trở thành “nhà khởi nghiệp” suy nghĩ cấp tiến hơn là họ thực sự muốn làm một người như thế bằng xương bằng thịt.
Thành thật mà nói, là một nhà khởi nghiệp thì việc phải gánh trách nhiệm phục vụ người khác chiếm phần lớn so với việc được nhìn nhận vai trò này. Nếu bạn có nhân viên làm việc cho bạn, họ đang trông cậy bạn sẽ chăm lo cho họ. Bạn là người trả lương hàng tháng. Bạn là người phải bảo đảm rằng mọi người hạnh phúc, hay thậm chí là thỏa mãn. Bạn là người phải thức dậy mỗi sáng và định hướng con tàu dù cho bạn đang cảm thấy thế nào đi nữa.
Bất cứ ai nghĩ rằng việc khởi nghiệp là để được nhìn nhận như một nhà khởi nghiệp thì ngay từ đầu đã không bao giờ là một nhà khởi nghiệp.
Nguồn doanhnhansaigon.vn
THANH NIÊN VÀ PHÁP LUẬT
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 04/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên nội dung còn lại Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 Quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm, nội dung như sau: Chương V: QUỸ QUỐC GIA VỀ VIỆC LÀM Mục 1. QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG QUỸ QUỐC GIA VỀ VIỆC LÀM Điều 20. Sử dụng Quỹ quốc gia về việc làm Quỹ quốc gia về việc làm (sau đây gọi chung là Quỹ) được sử dụng cho các hoạt động sau đây:
1. Cho vay ưu đãi đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh và người lao động để tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm;
2. Cho vay ưu đãi đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Điều 21. Quản lý Quỹ quốc gia về việc làm 1. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với Quỹ; phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phân bổ nguồn vốn và giao chỉ tiêu thực hiện cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cơ quan trung ương của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Cựu Chiến binh Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Hội Người mù Việt Nam (sau đây gọi chung là tổ chức thực hiện chương trình).
2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cơ quan trung ương của tổ chức thực hiện chương trình được giao nhiệm vụ quản lý và sử dụng nguồn vốn từ Quỹ theo quy định tại Nghị định này.
3. Quỹ được giao cho Ngân hàng Chính sách xã hội quản lý và cho vay theo quy định tại Nghị định này. Ngân hàng Chính sách xã hội báo cáo kết quả thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Mục 2. CHO VAY ƯU ĐÃI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA, HỢP TÁC XÃ, TỔ HỢP TÁC, HỘ KINH DOANH VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG Điều 22. Nguyên tắc cho vay vốn 1. Bảo đảm đúng đối tượng, vì mục tiêu hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm.
2. Bảo toàn vốn.
3. Thủ tục đơn giản, công khai, minh bạch.
Điều 23. Đối tượng vay vốn 1. Đối tượng vay vốn được quy định tại Khoản 1 Điều 12 Luật Việc làm.
2. Doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh (sau đây gọi chung là cơ sở sản xuất, kinh doanh) sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật, người dân tộc thiểu số tạiĐiểm a Khoản 2 Điều 12 Luật Việc làm được quy định như sau:
a) Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật là cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật;
b) Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng nhiều lao động là người dân tộc thiểu số là cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người dân tộc thiểu số;
c) Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật, người dân tộc thiểu số là cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật và người dân tộc thiểu số.
Điều 24. Mức vay 1. Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, mức vay 01 dự án tối đa là 01 tỷ đồng và không quá 50 triệu đồng cho 01 người lao động được tạo việc làm.
2. Đối với người lao động, mức vay tối đa là 50 triệu đồng.
Điều 25. Thời hạn vay vốn Thời hạn vay vốn không quá 60 tháng. Thời hạn vay vốn cụ thể do Ngân hàng chính sách xã hội và đối tượng vay vốn thỏa thuận căn cứ vào nguồn vốn, chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của đối tượng vay vốn.
Điều 26. Lãi suất vay vốn 1. Đối với đối tượng quy định tại Khoản 1 Điều 12 Luật Việc làm, lãi suất vay vốn bằng lãi suất vay vốn đối với hộ nghèo theo từng thời kỳ do Thủ tướng Chính phủ quy định.
2. Đối với đối tượng quy định tại Khoản 2 Điều 12 Luật Việc làm, lãi suất vay vốn bằng 50% lãi suất theo quy định tại Khoản 1 Điều này.
3. Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất vay vốn theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này.
Điều 27. Điều kiện bảo đảm tiền vay Đối với mức vay trên 50 triệu đồng từ Quỹ, cơ sở sản xuất, kinh doanh phải có tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật.
Điều 28. Lập hồ sơ vay vốn 1. Người lao động, cơ sở sản xuất, kinh doanh có nhu cầu vay vốn từ Quỹ lập hồ sơ vay vốn gửi chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội hoặc phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội (sau đây gọi chung là Ngân hàng Chính sách xã hội địa phương) nơi thực hiện dự án.
2. Hồ sơ vay vốn:
a) Đối với người lao động:
- Giấy đề nghị vay vốn có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về việc cư trú hợp pháp;
- Bản sao giấy tờ chứng minh đối tượng ưu tiên quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 12 của Luật Việc làm (nếu có).
b) Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, hồ sơ vay vốn gồm:
- Dự án vay vốn có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thực hiện dự án;
- Bản sao một trong các giấy tờ sau: Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, hợp đồng hợp tác, giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh;
- Bản sao giấy tờ chứng minh đối tượng ưu tiên quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 12 của Luật Việc làm (nếu có);
- Giấy tờ liên quan đến tài sản bảo đảm (nếu có).
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện Khoản 2 Điều này.
Điều 29. Thẩm định, phê duyệt hồ sơ vay vốn 1. Đối với dự án thuộc nguồn vốn do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý:
a) Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ vay vốn, Ngân hàng Chính sách xã hội địa phương tổ chức thẩm định, trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi thực hiện dự án phê duyệt;
b) Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ trình duyệt, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi thực hiện dự án xem xét, phê duyệt. Nếu không ra quyết định phê duyệt thì trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do để Ngân hàng Chính sách xã hội địa phương nơi thực hiện dự án thông báo cho người vay.
2. Đối với dự án thuộc nguồn vốn do tổ chức thực hiện chương trình quản lý:
a) Trong hạn 10 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ vay vốn, Ngân hàng Chính sách xã hội địa phương tổ chức thẩm định trình Thủ trưởng cơ quan cấp tỉnh của tổ chức thực hiện chương trình xem xét, phê duyệt;
b) Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ trình duyệt, Thủ trưởng cơ quan cấp tỉnh của tổ chức thực hiện chương trình xem xét, phê duyệt. Nếu không ra quyết định phê duyệt thì trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do để Ngân hàng Chính sách xã hội địa phương nơi thực hiện dự án thông báo cho người vay.
Điều 30. Thu hồi và sử dụng vốn vay 1. Ngân hàng Chính sách xã hội địa phương phối hợp với các cơ quan liên quan thu hồi cả gốc và lãi của vốn vay khi đến hạn, đối tượng vay có thể thỏa thuận trả vốn vay trước hạn. Trong quá trình cho vay, Ngân hàng Chính sách xã hội, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, tổ chức thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát nếu phát hiện vốn vay được sử dụng không đúng mục đích, không bảo đảm chỉ tiêu tạo việc làm theo dự án vay vốn trong thời gian vay vốn thì báo cáo với cơ quan phê duyệt hồ sơ vay vốn ra quyết định thu hồi vốn vay trước thời hạn.
2. Ngân hàng Chính sách xã hội sử dụng vốn vay đã thu hồi để cho vay, hạn chế vốn tồn đọng.
3. Trong trường hợp cần thiết phải điều chỉnh nguồn vốn vay giữa các địa phương, các tổ chức thực hiện chương trình, Ngân hàng Chính sách xã hội báo cáo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xem xét, quyết định. Ngân hàng Chính sách xã hội có trách nhiệm chuyển nguồn vốn vay theo quyết định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Điều 31. Sử dụng lãi vốn vay 1. Tiền lãi vốn vay được sử dụng như sau:
a) Trích lập Quỹ dự phòng;
b) Chi kinh phí quản lý cho vay, thu hồi vốn vay, kiểm tra, giám sát;
c) Bổ sung vốn cho Quỹ.
2. Các cơ quan phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội trong quá trình thẩm định, giải ngân và thu hồi vốn vay được hưởng phí do Ngân hàng Chính sách xã hội chi trả từ lãi vốn vay.
3. Bộ Tài chính hướng dẫn sử dụng lãi vốn vay theo quy định tại Điều này.
Điều 32. Xử lý nợ rủi ro vốn vay Xử lý nợ rủi ro vốn vay thực hiện theo quy định của Chính phủ về cơ chế xử lý nợ rủi ro tại Ngân hàng Chính sách xã hội.
Điều 33. Xây dựng, phê duyệt kế hoạch vốn vay và chỉ tiêu việc làm 1. Hằng năm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan trung ương của tổ chức thực hiện chương trình xây dựng kế hoạch vốn vay và chỉ tiêu việc làm gửi Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
2. Hằng năm, trên cơ sở phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thông báo kế hoạch vốn vay và chỉ tiêu việc làm cho các địa phương, các tổ chức thực hiện chương trình và Ngân hàng Chính sách xã hội để xây dựng kế hoạch thực hiện.
Điều 34. Tổ chức chuyển vốn vay 1. Căn cứ dự toán chi ngân sách nhà nước về nguồn vốn bổ sung vốn vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm, Bộ Tài chính làm thủ tục cấp vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội. Ngân hàng Chính sách xã hội chuyển vốn về Ngân hàng Chính sách xã hội địa phương để thực hiện kế hoạch đã được phê duyệt.
2. Trường hợp Ngân hàng Chính sách xã hội huy động nguồn vốn để thực hiện cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm thì được cấp bù chênh lệch lãi suất.
Mục 3. CHO VAY ƯU ĐÃI ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG Điều 35. Nguyên tắc cho vay vốn 1. Bảo đảm đúng đối tượng.
2. Bảo toàn vốn.
3. Bảo đảm công khai, minh bạch.
Điều 36. Mức vay Mức vay tối đa 100% chi phí đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ký kết giữa người lao động và doanh nghiệp dịch vụ, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Điều 37. Điều kiện bảo đảm tiền vay Đối với mức vay trên 50 triệu đồng, người lao động vay vốn ưu đãi để đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phải có tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật.
Điều 38. Thời hạn vay vốn Thời hạn vay vốn hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng không vượt quá thời hạn làm việc ở nước ngoài của người lao động ghi trong hợp đồng ký kết giữa người lao động và doanh nghiệp dịch vụ, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Điều 39. Lãi suất vay vốn 1. Lãi suất vay vốn ưu đãi đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng bằng lãi suất vay vốn đối với hộ nghèo theo từng thời kỳ do Chính phủ quy định.
2. Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất vay vốn theo quy định tại Khoản 1 Điều này.
Điều 40. Lập hồ sơ vay vốn 1. Người lao động có nhu cầu vay vốn ưu đãi để đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lập hồ sơ vay vốn gửi Ngân hàng Chính sách xã hội địa phương nơi cư trú.
2. Hồ sơ vay vốn:
a) Giấy đề nghị vay vốn theo hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về việc cư trú hợp pháp;
b) Bản sao giấy tờ chứng minh người lao động thuộc đối tượng quy định tại Khoản 2 Điều 11 Nghị định này;
c) Bản sao hợp đồng ký kết giữa người lao động với doanh nghiệp dịch vụ, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài;
d) Bản sao hộ chiếu còn thời hạn của người lao động;
đ) Các giấy tờ có liên quan đến tài sản bảo đảm (nếu có).
Điều 41. Thẩm định, phê duyệt vốn vay Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ vay vốn hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Ngân hàng Chính sách xã hội địa phương tổ chức thẩm định và phê duyệt. Nếu không ra quyết định phê duyệt thì Ngân hàng Chính sách xã hội địa phương thông báo cho người lao động bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Điều 42. Thu hồi vốn vay 1. Ngân hàng Chính sách xã hội thu hồi cả gốc và lãi của vốn vay khi đến hạn; người lao động có thể thỏa thuận về việc trả vốn vay trước hạn.
2. Đối với doanh nghiệp dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài quản lý tiền lương của người lao động ở nước ngoài thì doanh nghiệp, người lao động và Ngân hàng Chính sách xã hội thỏa thuận về việc doanh nghiệp chuyển tiền lương của người lao động để trả vốn vay.
Điều 43. Sử dụng lãi vốn vay 1. Tiền lãi vốn vay được sử dụng như sau:
a) Trích lập Quỹ dự phòng;
b) Chi kinh phí quản lý cho vay, thu hồi vốn vay;
c) Bổ sung vốn vay cho Quỹ.
2. Bộ Tài chính hướng dẫn sử dụng lãi vốn vay theo quy định tại Khoản 1 Điều này.
Điều 44. Xử lý nợ rủi ro vốn vay Xử lý nợ rủi ro vốn vay ưu đãi đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng thực hiện theo quy định của Chính phủ về cơ chế xử lý nợ rủi ro tại Ngân hàng Chính sách xã hội.
Điều 45. Xây dựng, phê duyệt kế hoạch vốn vay 1. Hằng năm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng kế hoạch vốn vay ưu đãi đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng gửi Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
2. Hằng năm, trên cơ sở phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thông báo kế hoạch vốn vay ưu đãi đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cho các địa phương và Ngân hàng Chính sách xã hội để xây dựng kế hoạch thực hiện.
Điều 46. Tổ chức chuyển vốn vay 1. Căn cứ dự toán chi ngân sách nhà nước về nguồn vốn bổ sung vốn vay ưu đãi đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Bộ Tài chính làm thủ tục cấp vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội. Ngân hàng Chính sách xã hội chuyển vốn về Ngân hàng Chính sách xã hội địa phương để tổ chức thực hiện.
2. Trường hợp Ngân hàng Chính sách xã hội huy động nguồn vốn để thực hiện cho vay ưu đãi đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng thì được Nhà nước cấp bù chênh lệch lãi suất.
Chương VI: ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH Điều 47. Hiệu lực thi hành và trách nhiệm thi hành 1. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 9 năm 2015.
2. Quyết định số
71/2005/QĐ-TTg ngày 05 tháng 4 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế quản lý và điều hành Quỹ quốc gia về việc làm và Quyết định số
15/2008/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về sửa đổi và bổ sung một số điều của Quyết định số
71/2005/QĐ-TTg; các quy định về chính sách hỗ trợ bộ đội xuất ngũ học nghề quy định tại Quyết định số
121/2009/QĐ-TTg ngày 09 tháng 10 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hoạt động của các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Quốc phòng và chính sách hỗ trợ bộ đội xuất ngũ học nghề; Điều 4 Nghị định số 03/2014/NĐ-CP ngày 16 tháng 01 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về việc làm hết hiệu lực thi hành kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành.
3. Các dự án vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm đã được phê duyệt trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì thực hiện theo dự án đã được phê duyệt.
4. Các chương trình, dự án, đề án hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã được phê duyệt trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì thực hiện theo chương trình, dự án, đề án đã được phê duyệt.
5. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (www.moj.gov.vn)
BÀI HÁT THANH NIÊN
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn tháng 05/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên lời bài hát “Ca Ngợi Hồ Chủ Tịch” Ca Ngợi Hồ Chủ Tịch Sáng tác: Văn Cao Người về đem tới ngày vui
Mùa thu nắng toả Ba Đình
Với tiếng Người còn dịu dàng như tiếng đất trời.
Người về đem tới xuân đời từ đất nước cằn,
Từ bùn lầy cả cuộc đời vùng lên.
Bao công nhân tiền phong đưa nhân dân bừng lên.
Nhân dân theo từng bước cha già, hòa bình vui ngàn năm.
Cụ Hồ Chí Minh ánh dương vào trong ngục tù,
Tay công nhân của thế giới mới lên.
Cụ Hồ Chí Minh, đế quốc tan tành hết với sức dân trào cuốn.
Vinh Quang nhân dân Việt Nam.
Bao đau thương miền Nam trong con tim Việt Nam
Đang dâng lên làn sóng căm hờn và niềm tin thành công.
Cụ Hồ Chí Minh, ý muôn người trong một người,
Tên quê hương hồn đất nước Bắc Nam.
Cụ Hồ Chí Minh, đế quốc tan tành hết,
Vinh quang nhân dân Việt Nam.
ĐỊNH HƯỚNG SINH HOẠT CHI ĐOÀN 1. Tuyên truyền kỷ niệm 127 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2017): Tiếp tục tuyên truyền về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Chủ tịch Hồ Chí Minh; tôn vinh những cống hiến vĩ đại của Người đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam, với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; tình cảm yêu mến, kính trọng của nhân dân Việt Nam và thế giới đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Tổ chức tuyên truyền, cổ động có hiệu quả về Tháng Thanh niên công nhân năm 2017 trên các kênh thông tin đại chúng, các kênh thông tin của Đoàn, hệ thống thông tin nội bộ của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đóng trên địa bàn; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của người lao động và toàn xã hội về Tháng Công nhân và Tuần lễ Thanh niên công nhân tỉnh Ninh Thuận.
3. Tiếp tục tuyên truyền Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; gắn với việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về
“tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ”. 4. Tuyên truyền lịch sử 76 năm vẻ vang của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và thiếu nhi Việt Nam, công tác Đội và phong trào thiếu nhi tỉnh Bình Dương. Qua đó, giúp thiếu nhi, đội viên hiểu rõ hơn về lịch sử, truyền thống Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, về những thành tích mà đội viên thiếu nhi cả nước nói chung và tỉnh nhà nói riêng đạt được qua các phong trào công tác Đội, về những gương anh hùng nhỏ tuổi, những nội dung chủ yếu về quá trình hình thành, xây dựng tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
5. Tuyên truyền công tác chuẩn bị Đại hội Đoàn các cấp cơ sở và công tác chuẩn bị Đại hội Đoàn cấp huyện và tương đương.
TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN
Số 05 -Tháng 6/2017
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Trong muôn vàn tình thân yêu của Người dành cho Nhân dân, có một tình yêu lớn dành cho thiếu niên nhi đồng. Thiếu niên và nhi đồng luôn luôn được Bác Hồ dành cho một tình thương yêu đặc biệt. Tấm lòng yêu thương và những lời dạy của Người vẫn luôn đồng hành cùng thiếu niên nhi đồng cả nước, là di sản văn hóa vô giá của toàn Đảng, toàn dân và của thế hệ trẻ nước ta.
Sinh thời, dù luôn bận bịu với việc nước, nhưng Bác Hồ vẫn dành nhiều thời gian quan tâm đến thế hệ măng non, bởi theo Bác, chính những thế hệ này sẽ là những chủ nhân tương lai của đất nước. Bác Hồ thường có thư gửi các cháu mỗi dịp khai trường, hay Tết Trung thu, Tết Thiếu nhi. Lời lẽ trong thư luôn ân cần, trìu mến, chí tình. Bác luôn nhắc thiếu nhi phải đoàn kết, thi đua học tập, lao động, rèn luyện đạo đức, rèn luyện sức khoẻ. Tấm lòng của Người đối với thiếu nhi được thể hiện qua những bức thư, những bài thơ mà cho đến hôm nay vẫn chan chứa tình thương yêu vô hạn.
Những vần thơ của Bác Hồ dành cho thiếu nhi chứa đựng tình thương yêu sâu sắc và thắm thiết. Người luôn nhắc đến trẻ em với một tình cảm trìu mến, nâng niu:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan
Chẳng may vận nước gian nan
Trẻ em cũng phải lầm than cực lòng”...
Hết lòng thương yêu và ân cần dạy bảo thiếu nhi, Bác Hồ rất tin tưởng xác định trách nhiệm trọng đại của thiếu nhi đối với tương lai đất nước. Trong thư gửi học sinh vào tháng 9 năm 1945, Bác đã viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”.
Cụ thể hơn, nhân dịp kỷ niệm 20 năm Ngày thành lập Đội thiếu niên Tiền Phong tháng 5 năm 1961, Bác gửi đến thiếu nhi cả nước 5 lời dạy thiêng liêng:
“Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào
Học tập tốt, lao động tốt
Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt
Giữ gìn vệ sinh
Thật thà dũng cảm”
Cho đến hôm nay, thiếu nhi cả nước vẫn xem như đó là mục tiêu để phấn đấu, là tiêu chuẩn để đánh giá đội viên tiêu biểu của Đội. Cũng ngay trong lá thư này, Bác ân cần nhắc nhở thiếu niên nhi đồng: “Mai sau các cháu sẽ là người chủ của nước nhà. Cho nên ngay từ rày, các cháu cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng để chuẩn bị trở nên người công dân tốt, người cán bộ tốt của nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Không chỉ yêu thương thiếu niên, nhi đồng, Bác Hồ còn khẳng định vai trò quan trọng của thiếu nhi đối với tương lai mai sau của đất nước và xác định trách nhiệm chăm sóc giáo dục các em không phải của riêng ngành nào, tổ chức nào mà là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân. Người luôn luôn nhắc nhở chúng ta phải quan tâm đến việc giáo dục thiếu niên nhi đồng. Trong thư gửi Hội nghị cán bộ phụ trách nhi đồng toàn quốc, ngày 25 tháng 8 năm 1950, Bác Hồ viết: “Giáo dục nhi đồng là một khoa học. Cách dạy trẻ, cần làm cho chúng biết yêu Tổ quốc, thương đồng bào, yêu lao động, biết vệ sinh, giữ kỷ luật, học văn hóa. Đồng thời phải giữ toàn vẹn tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng, chớ nên làm cho chúng hóa ra già cả”.
Bác cũng căn dặn người lớn phải quan tâm chăm sóc, giáo dục các em. Người dạy, ngày Tết Thiếu nhi 01/6 nhắc nhủ người lớn trước hết là bố mẹ, cô giáo, thầy giáo, Đoàn Thanh niên nhớ nhiệm vụ của mình đối với nhi đồng và người lớn phải là tấm gương cho trẻ em, phải “khéo giáo dục để mai sau nhi đồng trở thành người công dân có tài, có đức”.
Ba tháng trước ngày đi xa, Bác lại viết bài: “Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng” in trên báo Nhân dân. Bác viết: “Thiếu niên nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy, chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ. Trong thời gian tới và trong dịp hè này, cần phải đẩy mạnh công tác thiếu niên nhi đồng đạt nhiều kết quả tốt và thiết thực”.
Trong Bản Di chúc lịch sử của mình, Bác Hồ cũng đã hai lần nhắc đến các cháu nhi đồng và Người đã dành muôn vàn tình thân yêu của mình cho các cháu nhi đồng Việt Nam và nhi đồng quốc tế. Tấm lòng của Bác Hồ đối với thiếu nhi Việt Nam ví như trời biển. Nỗi thương nhớ của Bác đối với các cháu không bao giờ vơi cạn. Cho đến ngày Bác phải đi xa, trong Di chúc của mình, Bác còn gửi gắm: “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho các cháu thiếu niên và nhi đồng...”
Ngày nay, thiếu niên nhi đồng nước ta đã và đang được Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và toàn xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, đã được thể hiện bằng luật định. Nhân Ngày Quốc tế thiếu nhi 01/6, thiếu nhi nước ta một lần nữa ôn lại lời dạy của Bác Hồ kính yêu trong những câu thơ mà Bác đã gửi cho các em vào tết trung thu năm 1952:
“Mong các cháu cố gắng
Thi đua học và hành
Tuổi nhỏ làm việc nhỏ
Tùy theo sức của mình...
Các cháu hãy xứng đáng
Cháu Bác Hồ Chí Minh”.
Nhớ ơn Bác, toàn thể thiếu nhi Việt Nam nguyện cố gắng học tập, tu dưỡng và rèn luyện thật tốt, trở thành con ngoan, trò giỏi để xứng đáng là “Cháu Bác Hồ Chí Minh” như Người hằng mong đợi./.
Nguồn Trang tin điện tử Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
DI TÍCH LỊCH SỬ TẠI THĂNG BÌNH
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 05/2017, chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn đoàn viên thanh niên, các tổ chức Đoàn về Di tích cấp quốc gia Lăng Bà Chợ Được . Lăng Bà Chợ Được thuộc tổ 16, thôn 3 (Phước Ấm), xã Bình Triều, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Lăng Bà Chợ Được cách Trung tâm Hành chính Thị Trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình 5km. Từ ngã tư Hà Lam đi theo đường ĐT 613 về hướng Đông khoảng 4km nhìn về phía tay phải là đài tưởng niệm Hà Lam - Chợ Được, từ đây đi tới khoảng 500m nhìn về phía tay trái là đến lăng Bà Chợ Được (lăng Bà nằm ngay ngã ba Bình Triều). Theo “Truyện Thần Nữ Linh Ứng” được lưu giữ tại lăng Bà, Bà họ Nguyễn huý là Của (Nguyễn Thị Của), người Châu Phiếm Ái, Tổng Mỹ Hoà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn (nay thuộc huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam). Bà sinh ngày 25 tháng 02 năm 1799, thời Lê Cảnh Hưng năm thứ 39. Cha họ Nguyễn huý là Trí, từng làm quan cho triều Lê đến chức “Đặc Tiến Tòng Đại Phu”. Mẹ họ Trịnh huý là Tình, là người phụ nữ nết na, cung kính, vợ chồng rất đẹp đôi, gia thế tương đối khá giả. Sự ra đời của Bà rất kỳ lạ, là con nhà giàu có, sinh nơi khuê các nhưng lại có bụi hồng mù mịt, mây trắng bồng bềnh, tiếng nói sang sảng, người đẩy đà, trắng trẻo như tuyết, da thịt nõn nà, bước đi khác thường (mỗi bước đi chỉ khoảng chín đốt ngón tay). Bà thích ăn mặc sạch sẽ, quần áo may xong phải giặt rồi mới mặc, không ăn thức ăn mua sẳn ngoài chợ, người đoan chính, dịu dàng, đối với trẻ con thì rất khéo chăm sóc vỗ về, thường làm tiếng sáo mũi, thích nghe hát và tiếng pháo nổ. Bà được người Vú nuôi họ Đoàn huý là Đoán thay mẹ chăm sóc dạy dỗ và người Vú này được Bà rất quý mến. Bà quy tiên ngày 19 tháng 11 năm Đinh Sửu (1817), đời Gia Long thứ 16, Bà được an táng tại quê nhà, sau khi chôn cất xong, mộ Bà bị một con trâu húc đổ, liền sau đó con trâu lăn đùng ra chết ngay, người làng không ai không bảo là chuyện lạ, riêng ông chủ bái của làng không tin mà nói rằng: “Trâu chết là sự tình cờ, chớ cô gái ấy làm gì mà linh thiên” nói xong ông chủ bái ôm đầu kêu đau, không bao lâu thì ông chết. Thần phụ đồng nói cho dân biết là vị chủ bái bất kính ta, nên ta bắt chết. Thần có người cháu họ xa tên là Lê Hùng đi ghe ra Hà Nội buôn bán hẹn đến tháng 5 về. Lúc về có một người quá giang, người này bị say sóng nằm mê man chẳng ăn uống gì cả, khi ghe về đến vùng biển Quảng Bình, nửa đêm gặp bảo biển dữ dội, toàn ghe đều chìm hết. Lê Hùng gặp nạn sợ hải, xin thần cứu nạn, lập tức thần nhập vào người bị say sóng cùng đi trên thuyền đứng dậy cầm tay lái, “dừng lại nơi đây có ta không sợ gì cả”, Lê Hùng vâng theo lời dạy quả nhiên được bình an. Thần ghét tính dâm, có một người con trai tên là Khôi, hễ thấy con gái nhà người có nhan sắc là động xuân tình, mỗi lần như thế, Thần hiện thành con gái, tuổi chừng 17-18, rất nõn nà để gặp mặt anh ta, khi anh ta thể hiện thái độ bản tính vốn có thì bổng nhiên Thần biến mất, anh ta hết sức kinh ngạc, từ đấy anh ta đổi tính nết. Ở xã Hoà Thanh thuộc phủ Tam Kỳ có người tên là Nguyễn Thuần, chở nước mắm bằng thuyền ra bến Thần Châu rồi đi về hướng Tây, có người ở Thần Châu bắt được một con chim lớn, nảy ra ý nghĩ sẽ lấy hai cánh chim làm thành quạt để cúng lên miếu Thần. Nguyễn Thuần nhân lúc say rượu nên muốn xin hai cánh chim nhưng người bắt được chim vốn có lòng thành nên không đồng ý cho. Nguyễn Thuần bảo ông cứ cho tôi đi, nếu Thần quả có linh thiêng thì tới Hà Thanh mà hại tôi. Vừa nói dứt lời thì Nguyễn Thuần kéo buồm cho thuyền quay ngay lại rồi dùng sào chống thuyền cặp vào bờ sông trước miếu Thần, anh ta quay người và bước lên trước án Thần miếu, tự hô tên và tự bảo “Mày còn khinh mạn ta hết, mày đã thấy sự linh diệu của ta chưa ?” được một lát anh ta lại cúi xuống trước án lạy một trăm lạy để xin Ngài tha tội, khoảng chừng hai khắc, người chú ruột của Nguyễn Thuần thấy thế, hết sức kinh hoảng, ông chú vội tắm rửa sạch sẽ rồi đến trước miếu lạy một trăm lạy xin tạ tội, thay mặt cháu mình xin Thần tha thứ, may là Thần dừng phạt, y được bình an. Những chuyện tương tự như vậy không thể kể hết. Những năm về trước, nơi miếu này dân có cúng thờ áo xiêm, mũ mão, giày bằng giấy, có cả chang tóc rất dài. Mỗi khi thần phụ đồng, tự mặc áo xiêm, mang giày bằng giấy như đồ thật, ngài đi qua lại trên bồn hoa trước miểu nhẹ nhàng không hư gẩy một bông và không hư rách áo xiêm giấy. Sự anh linh ứng hiện của Ngài được truyền tụng từ đời này qua đời khác. Xưa kia mộ Thần được táng tại thôn Phiếm Ái, đến năm Thành Thái thứ 10, tổng đốc tỉnh Quảng Nam là ông Nguyễn Công Thưởng sợ sông Ái Nghĩa lỡ sát mộ Ngài bằng lập đàn xin dời mộ đến làng Phước Yên. Khi dời mộ, khai quật lên thấy đất có đủ năm màu, cốt cách vẫn nguyên vẹn, dưới cỏ có một dây chuyền ngọc quấn quanh, đúng là dung mạo của Thần, sau khi dời mộ xong, Thần nhập đồng bảo người cháu là Nguyễn Thực chuẩn bị trầu cau và rượu để tạ người làng, người làng nhớ đến Thần và ai cũng bái phục. Đến năm Thành Thái thứ 18 (năm Bính Ngọ), Tổng đốc tỉnh này là Hồ Đăng Đệ và quan Bố Chánh phái Hồ Đắc Thiệu làm Huyện Doãn huyện Đại Lộc kêu gọi Nhân dân, Hương Hào quyên góp tiền bạc để tu tạo phần mộ (nguyên là mộ đắp đất, sau sửa thành mộ xây). Đời Tự Đức thứ 5, năm Nhâm Tý (1848), nhân một chuyến “Vân du” qua làng Phúc Toản, tổng An Thanh Hạ, huyện Phong Dương, phủ Thăng Bình (nay thuộc thôn 3 (Phước Ấm), xã Bình Triều, huyện Thăng Bình) thấy phong cảnh hữu tình, hội đủ các yếu tố: Thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Bà rất hài lòng, Bà có ý muốn quy tụ thành chợ để mua bán, trao đổi hàng hoá. Bà hoá thành thiếu nữ xinh đẹp, độ chừng mười tám, đôi mươi làm nghề bán trầu, đổi nước, dần dần, kẻ qua người lại ngày một đông đúc thành chợ, những người có quán tranh trong xã đều tập trung vào chợ, thuyền bè tấp nập, nhà cửa nối tiếp như một nơi đô hội. Vì vậy người ta gọi là “Chợ Bà” hay “Chợ Được”, có nghĩa là buôn bán đắc (đắc thị). Để tưởng nhớ công đức của Bà dân làng tín ngưỡng Thần lực, cầu xin việc gì đều được như ý, nguồn lợi, của cải tuôn đến nên mọi người đồng lòng quyên cúng, lập thành miếu sở, định ra các khoảng lập lăng, tế lễ hàng năm vào ngày 19 tháng 11 và ngày lễ Thần giáng sinh 25 tháng 2 (Âm lịch) là ngày lễ tế Bà. Đời Thành Thái thứ 6, năm Giáp Ngọ (1894), các nhà buôn, hào lý, cùng với nhân dân Phước Ấm Chợ Được lập đơn trình lên Tổng tiếp nhận và thị thực. Sau đó được quan Bộ Lễ đề đạt. Nên ngày 20 tháng 9 năm ấy thì được sắc phong “Trai Thục Dực Bảo Trung Hưng Trung Đẳng Thần, Thần Nữ Linh Ứng - Nguyễn Thị Tôn Thần”. Trong năm được sắc phong ông Nguyễn Công Thuật - Hiệp tá Đại học sĩ Bộ Lãnh Binh (tức cụ Hà Đình ở Hà Lam) được lệnh đến truyền đạt chỉ của Tây cung, giao cho Thái giám ở Thọ cung Gia Dụ là Nguyễn Cừ đến trao tặng 2 tấm Kim tiền, một tấm là “Tứ Mỹ” cho Phiếm Ái Châu huyện Diên Phúc, một tấm là “Tam Thọ” giao cho Phước Ấm Châu ở lăng Bà - Chợ Được. Ngày 23 tháng 12, đời Thành Thái thứ 7, năm Ất Mùi (1895), tiếp được phụng chỉ, Thái giám cung Gia Dụ - Nguyễn Cừ đã giao: khăn nhiễu tốt 2 liên (mỗi liên 3 chiếc), lụa 2 đoạn (mỗi đoạn 12 thước), dải Đồng tâm 2 liên (mỗi liên 4 thước 8 tấc), bạc 6 đồng, các thứ trên được chia làm 2 phần, một phần cho Phiếm Ái, một ở lăng Bà - Chợ Được. Vì sự hiển linh của Bà, Bà đã giáng cho đồng tử kê đơn bốc thuốc chữa bệnh cứu nhân độ thế. Đời vua Khải Định cửu niên (1924) đã lệnh tặng thêm cho Bà: “Trang Huy Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần”. Được sự ban sắc của triều đình, các nhà buôn, hào lý, nhân dân Phước Ấm Chợ Được nói riêng, Bình Triều nói chung đã tổ chức lễ “Rước sắc” rất linh đình, rộn rã. Để tưởng nhớ công đức của người sáng lập chợ Được mà tên bà gắn liền với tên chợ: Bà chợ Được, với lòng thành kính và sự hãnh diện. Hằng năm, quan chức, dân chúng địa phương tổ chức lễ tế và “Khoe sắc” vào ngày 11 tháng giêng (ngày nhận sắc phong đầu tiên). Từ đó lễ hội Cộ Bà Chợ Được dần dần hình thành và phát triển bao gồm phần lễ (lễ rước sắc, lễ cúng đất, lễ cúng Bà) và phần hội (hội đua thuyền, hát bội, rước cộ…) trong đó phần hội rước cộ là điểm nhấn quan trọng tạo nên đặc sắc riêng của Lễ hội cộ Bà, lễ hội văn hoá dân gian này chứa đựng nhiều giá trị quý báu về văn hoá, nghệ thuật, tâm linh và cố kết cộng đồng. Lễ hội Bà Chợ Được mang ý nghĩa phụng tự, nhưng đã trở thành một sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng cộng đồng có sức lan toả rộng rãi tạo nên một cảm nhận chung về lòng biết ơn đối với công đức của Bà.
Lăng Bà Chợ Được toạ lạc trên một bãi đất rộng rãi thoáng mát ở xóm chợ thuộc Tổ 16, Thôn 3 (Phước Ấm), Bình Triều. Trước đây, người dân lập một mái nhà nhỏ một gian làm bằng tranh, tre để thờ Bà (1849), về sau ngôi nhà một gian được nâng lên thành ba gian rộng rãi tường xây mái ngói (1857), cuối tháng 10 năm 1968 (Mậu Thân) nhân dân trong làng với tấm lòng thành kính kẻ ít, người nhiều đã góp kinh phí và xây lại lăng Bà với tường gạch, mái ngói như hiện nay. Trước mặt lăng là tấm bình phong đắp nổi hình con cọp và hai trụ biểu cách điệu hình hoa sen đặt hai bên với hai câu: “Phước linh lập thị quy dân hiệp - Ấm địa danh thành vạn đợi lưu”, trên nóc lăng Bà là bốn chữ “Thần Nữ Linh Ứng”, lăng Bà có diện tích tương đối hẹp: 144m2 , lăng được làm theo lối kiến trúc của đình làng ngày xưa với góc mái cong thường gọi là đao mái. Tuy quy mô và thẩm mỹ không bằng các đình làng nhưng các đao mái của lăng Bà vẫn vút cong ở 4 mái rất thanh thoát, nhẹ nhàng. Các đầu đao lại được trang trí hình con phượng - một trong bốn tứ linh, hai đầu bờ nắp được đắp vênh lên như mũi thuyền. Chính giữa mái lăng là rồng chầu mặt nguyệt rất sinh động và tại tường hiên lăng được đắp nổi hai câu: “Đông Tiếp Trà Giang Ninh Hướng Trung Thiên Vân Lộng Vũ - Tây Liên Ngọc Lãnh Trung Hướng Đại Địa Lôi Huỳnh Ba”. Bên trong lăng được bài trí như một ngôi đình thờ thần làng. Tẩm trong cùng là nơi an phụng Thần vị với long ngai và hình nộm của Bà bằng vải, trang phục của hình nộm được may bằng vải đỏ, thêu kim tuyến nhiều màu rực rỡ, Bà đi hài, đầu cài vương miện, bên phải và bên trái bà còn có hai cây quạt to hình trái tim. Trước nơi an phụng thần vị là bàn thờ Bà. Trên bàn thờ, ngoài hương án, đài rượu bằng đồng, bình hoa bằng sứ còn có hòm đựng sắc phong của Bà. Trước bàn thờ là bàn án cũng đặt hương hoa, đèn nến. Bàn án là nơi đồng tử theo lệnh Bà cho thuốc chữa bệnh và mọi việc cúng tế cũng diễn ra ở đây. Hai bên bàn thờ và bàn án có hai hàng tự khí gồm tàn lọng, gươm, đao, hèo tượng trưng đồ bát bửu và lỗ bộ, trên đỉnh bàn thờ có ba chữ đại tự: “Thần Nữ Miếu”, hai cánh bên có hai câu đối nói lên chức sắc của Bà: “Thần Ân Vĩnh Bảo Dực Trung Hưng - Đế Phong Phương Lộc Gia Thượng Đẳng”. Đặc biệt ở bàn án có thờ một cây bút bằng gỗ màu đen, tương truyền rằng trước đây Bà dùng bút này giáng cho Đồng tử để kê đơn thuốc chữa bệnh cứu người. Phía trái bàn thờ Bà là tả ban, phía hữu bàn thờ Bà là hữu ban. Tả ban và Hữu ban đều thờ các vị tiền bối, cả hai bàn thờ này đều đặt hương án, đèn nến, kích thước nhỏ hơn bàn thờ Bà. Phía ngoài nhìn vuông góc với bàn thờ Bà là bàn thờ công đức và có một bản công đức treo bên trái tường ghi danh những người có công đóng góp xây lăng và làm việc thiện. Phía trước lăng là dòng sông Trường Giang trong xanh, yên ả. Xưa kia nơi đây là bến sông, thuyền bè vào ra mua bán tấp nập, tuy giờ đây đường thuỷ không còn thịnh hành nữa nhưng dòng sông bến nước này vẫn có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Phước Ấm. Bên phải lăng là nhà thờ Tiền Hiền và Nhà văn hoá thôn. bên trái Lăng Bà là nhà ông Võ Đình Luận. Sau lưng lăng là đường bêtông liên xã.
Lăng Bà Chợ Được là nơi thờ một vị Nữ Thần có vị trí và vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người Bình Triều, Bà luôn hiện hữu trong cuộc sống của người dân như một điểm tựa tâm linh vững chắc. Bà là người mà nhân dân Bình Triều đặt niềm tin về một thế lực thần linh luôn phù trợ, cứu độ cho cuộc sống của dân chúng. Rước cộ Bà Chợ Được mang ý nghĩa tưởng nhớ công đức của người sáng lập Chợ Được mà tên của Bà gắn liền với tên chợ: Bà Chợ Được, Bà là nữ thần linh ứng được triều đình sắc phong “Thượng Đẳng Thần”, được nhân dân lập lăng thờ phụng, hương khói quanh năm. Lễ hội có vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân Bình Triều nói riêng, Thăng Bình nói chung, đây là một hoạt động diễn xướng dân gian chứa nhiều giá trị nổi bật và quan trọng nhất là giá trị tâm linh, văn hoá, nghệ thuật, điêu khắc, tạo hình, sân khấu, luật tục, lễ nghi, cố kết cộng đồng, đây là cầu nối tâm linh giữa con người với nhau, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hoá ở làng xã, bảo tồn những vốn quý của di sản văn hoá tinh thần của dân tộc. Đó là nơi gặp gỡ, giao lưu văn hoá nuôi dưỡng truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” đắp bồi tình yêu quê hương đất nước cho lớp trẻ. Chỉ riêng những bàn cộ cũng đã là minh chứng sống động cho sự hội tụ văn hoá này
Nguồn: Từ cổng thông tin điện tử Thăng Bình
THEO DÒNG LỊCH SỬ
Những ngày đáng nhớ trong tháng 6: - Kỷ niệm 67 năm Ngày Quốc tế thiếu nhi (01/6/1950 - 01/6/2017)
- Kỷ niệm 45 năm Ngày Môi trường thế giới (05/6/1972 - 05/6/2017)
- Kỷ niệm 106 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (05/6/1911 – 05/6/2017)
- Kỷ niệm 69 năm Bác Hồ ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948 – 11/6/2017)
- Kỷ niệm 92 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/21925 – 21/6/2015)
- Kỷ niệm 16 năm Ngày gia đình Việt Nam (28/6/2001 - 28/6/2017)
01/6/1950: Ngày Quốc tế thiếu nhi Điên cuồng trước âm mưu mở cuộc tiến công phía Nam mặt trận Xô - Đức hòng tiêu diệt Liên Xô, 11h đêm ngày 09/6/1942, trong khi mọi người đang ngủ thì phát xít Hitle sụt vào làng Liđixe - một làng phía Bắc thu đô Praha (Tiệp Khắc). Chúng bắt dân làng tập trung lại rồi xả súng bắn giết dã man, sau đó cho vào lò thiêu. Nhà cửa của cải của dân làng bị cướp bóc, đốt phá. Chỉ trong một ngày 10/6/1942, chúng đã giết 92 người trong đó có 88 trẻ em.
Hai năm sau, ngày 10/6/1944, sau khi bị đánh bật ra ngoài biên giới Liên Xô, tại Ôđrađua, một thị trấn nhỏ bên bờ sông Gơlani ở miền Trung nước Pháp, bọn phát xít Hítle lại gây ra những tội ác mới. Chúng bao vây Ôrađua, gí súng đẩy từng người một vào nhà thờ rồi tưới xăng thiêu chết 1.400 người, trong đó có 200 trẻ em.
Cái chết thê thảm của dân làng Liđixe và Ôrađua đã thúc giục Nhân dân Châu Âu đứng lên cùng Hồng quân Liên Xô đánh thắng chủ nghĩa phát xít. Để khắc sâu căm thù đối với những cuộc thảm sát do bọn phát xít Đức gây ra trong những ngày tháng 6 và để biểu dương ý chí của các bà mẹ, của những người quan tâm tới trẻ con, quyết phấn đấu cho tương lai, hoà bình và hạnh phúc của con em mình, tháng 01/1949, Liên đoàn phụ nữ dân chủ thế giới họp ở Matxcơva (Liên Xô) đã quyết định lấy ngày 01/6 hàng năm làm này Quốc Tế thiếu nhi. Tiếp theo đó, tháng 4/1952 tại Viên đã có cuộc họp quốc tế bảo vệ thiếu nhi. Hội nghị này đã yêu cầu tất cả chính phủ các nước đặt ra những pháp luật cho nước mình nhằm bảo đảm hạnh phúc cho các bà mẹ và trẻ em, đòi cấm những phát minh khoa học vào mục đích chiến tranh.
Đến năm 1955, đại hội các bà mẹ hầu hết các nước trên thế giới họp tại Matxcơva đã tố cáo bọn đế quốc âm mưu gây lai chiến tranh và kêu gọi các bà mẹ khắp năm châu siết chặt thêm hàng ngũ đấu tranh cho một nền hoà bình bền vững trên đất nước.
Từ đó đến nay, những tổ chức phụ nữ, thanh niên ở các nước lấy ngày 01/6 làm ngày biểu dương lực lượng đấu tranh chống các thế lục gây chiến tranh để bảo vệ hạnh phúc cho các bà mẹ và trẻ em trên thế giới.
Ở nước ta, từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ngày 01/6 đã được tổ chức hàng năm và trở thành ngày hội chăm sóc và bồi dưỡng thế hệ măng non tổ cho tổ quốc. Nhà nước ta cũng ban hành pháp lệnh về chăm sóc và bảo vệ thiếu niên, nhi đồng, coi trách nhiệm vẻ vang ấy là của toàn dân. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và thứ 2 trên thế giới phê chuẩn công ước về quyền trẻ em – văn kiện pháp lý quốc tế đề cập toàn diện đến các quyền trẻ em dựa trên nguyên tắc trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ giúp đỡ đặc biệt.
05/6/1972: Ngày Môi trường thế giới Hàng năm Ngày Môi trường Thế giới (05/6) được tổ chức trọng thể nhằm khuyến khích sự quan tâm chính trị và hành động bảo vệ môi trường.
Bắt đầu từ những năm 1960, những dấu hiệu cho thấy sự phát triển ngày càng tăng của nạn suy thoái môi trường đã ngày một rõ ràng hơn, con người đã bắt đầu ý thức được về những ảnh hưởng có hại của mình đối với môi trường sống.
Hội nghị của Liên Hợp quốc về Con người và Môi trường tổ chức tại thủ đô Stockholm của Thuỵ Điển từ ngày 05, 06/6/1972 là kết quả của những nhận thức mới này, là hành động đầu tiên đánh dấu sự nỗ lực chung của toàn thể nhân loại nhằm giải quyết các vấn đề về môi trường.
Trong cuộc họp này, Chương trình Môi trường Liên Hợp quốc cũng đã được thành lập vào ngày 05/6/1972. Đại Hội đồng Liên Hợp quốc đã quyết định chọn Ngày Môi trường thế giới 05/6 từ năm 1972 và giao cho Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) có trụ sở tại Nairobi, Kenya, tổ chức kỷ niệm sự kiện này. Hằng năm, vào ngày này lễ kỷ niệm trọng thể được tổ chức tại hơn 100 nước trên thế giới.
Mục đích của Ngày Môi trường thế giới là tập trung sự chú ý trên toàn thế giới vào tầm quan trọng của môi trường và khuyến khích sự quan tâm chính trị và hành động bảo vệ môi trường.
Sự kiện này làm cho các vấn đề môi trường mang tính nhân văn; trao quyền cho mọi người để trở thành tác nhân tích cực của quá trình phát triển bền vững và bình đẳng; nâng cao hiểu biết của các cộng đồng về vai trò then chốt làm thay đổi hành vi hướng tới các vấn đề môi trường; ủng hộ mối cộng tác để đảm bảo rằng, tất cả các quốc gia và các dân tộc được hưởng một tương lai an toàn và thịnh vượng hơn.
Mỗi năm, Liên Hợp Quốc chọn một thành phố làm nơi tổ chức lễ kỷ niệm Ngày Môi trường Thế giới. Chính phủ và thành phố nước chủ nhà sẽ hợp tác với UNEP tạo ra bầu không khí cho sự kiện này. Chủ đề, khẩu hiệu và logo sẽ được chọn để làm trọng tâm cho các tài liệu tuyên truyền về Ngày Môi trường Thế giới, cũng như các hoạt động cổ động trên toàn cầu.
Trong ngày này, Nhân dân trên toàn thế giới sẽ nhận được một thông điệp chính thức của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, trong đó có nêu lên các vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường chung trên toàn thế giới.
Bắt đầu từ năm 1987, để khuyến khích tinh thần và trách nhiệm bảo vệ môi trường của toàn thể nhân dân trên thế giới, Liên Hợp quốc đã phát động thêm lễ trao giải thưởng Global 500 được tổ chức vào đúng ngày môi trường thế giới tại thành phố được chọn làm trung tâm tổ chức lễ kỷ niệm ngày này trên thế giới. Hàng năm, Liên Hợp Quốc sẽ chọn ra những người có nhiều đóng góp cho hoạt động bảo vệ môi trường để trao Giải thưởng Global 500.
Lễ kỷ niệm Ngày Môi trường Thế giới hàng năm ở Việt Nam thường có sự tham gia của mọi tầng lớp dân chúng như các quan chức Chính phủ, đại diện của các cơ quan, tổ chức quốc tế và các Đại sứ quán ở Việt Nam, học sinh, sinh viên và các tổ chức xã hội quần chúng.
Ngày Môi trường Thế giới “chính là sự kiện của người dân” với các hoạt động đa dạng, phong phú, như tuần hành, diễu hành bằng xe đạp, các buổi hoà nhạc xanh, các cuộc thi tại trường học, trồng cây, chiến dịch tái chế chất thải và làm sạch môi trường.
05/6/ 1911: Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước Cách đây 106 năm, ngày 05/6/1911, tại Bến cảng Sài Gòn, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứa nước, giải phóng cho nhân dân thoát khỏi cảnh nô lệ áp bức của thực dân pháp. Đây là sự kiện mang ý nghĩa sâu sắc, mở đầu cho chặng đường dẫn thân của người thanh niên yêu nước, sau này trở thành lãnh tụ thiên tài của nhân dân Việt Nam - Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã cống hiến cả đời cho dân tộc và nhân loại.
21/6/1925: Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới cũng là một nhà báo xuất sắc, người sáng lập ra nền báo chí Cách mạng Việt Nam.
Ngày 21/6/1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập ra tờ báo Thanh niên- cơ quan của tổ chức Thanh niên Cách mạng Việt Nam. Đây là tờ báo Cách mạng Việt Nam đầu tiên do Bác Hồ sáng lập, chỉ đạo và là người biên tập chính. Báo Thanh niên, với 88 số, mở ra lớp đào tạo 300 cán bộ đều do Bác Hồ khởi thảo, chủ trì, giảng dạy là sự mở đầu một cuộc Cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH.
Bác Hồ bắt đầu sự nghiệp Cách mạng bằng việc viết báo Cách mạng kiểu mới, Mác xít Lê Nin Nít. Người sáng lập nền báo chí Cách mạng kiểu mới ở nước ta. Báo Thanh niên lúc đó đã mở một đột phá về thế giới quan, tư tưởng chính trị, quan niệm về báo chí, đối tượng, phong cách. Nói khái quát là mở đầu cuộc Cách mạng tư tưởng, đưa nền tảng tư tưởng truyền thống của dân tộc mình lên một tầm cao mới. Người Việt Nam được tiếp cận với khoa học, sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Lần đầu tiên ở nước ta, tư tưởng giải phóng dân tộc gắn liền với tư tưởng giải phóng xã hội. Quần chúng lao động là chủ thể quan trọng nhất của Cách mạng kết hợp với giới tinh hoa của dân tộc, được truyền bá rộng rãi. Đây cũng là lần đầu tiên lợi ích đất nước, lợi ích quần chúng trở thành nội dung, đề tài trung tâm của báo chí. Quần chúng có báo của mình. Viết cho quần chúng lao động, báo Cách mạng phải đi sát cuộc sống quần chúng, xuất phát từ thực tiễn, hướng dẫn hành động của quần chúng, cải thiện, cải tạo cuộc sống của mình và của đất nước.
Bác Hồ sáng lập và bằng chính những tờ báo, bài báo do Bác chủ trì và viết, sáng lập phong cách văn chương báo chí của quần chúng: giản dị, dễ hiểu mà sâu sắc. Người viết nhiều thể loại văn học và báo chí: tin ngắn, dài, tin bình, chính luận, trào phúng, ký, tuyên ngôn, hiệu triệu, thơ tự sự, trữ tình. Văn chương của Người thể hiện phong cách Đông Tây, cổ kim Việt hóa, phảng phất phong cách của Chiếu dời đô, Hịch Tướng sĩ, Quân trung từ mệnh, Chiếu lên ngôi và Thượng kinh ký sự, Vũ trung tùy bút. Từ ngữ giản dị mà hàm ý sâu sắc. Những áng hùng văn của Bác như: Lời kêu gọi của Nguyễn ái Quốc, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đặc biệt là bản Di chúc, thật trong sáng và giản dị!
Bác Hồ đặt nền móng cho nền báo chí nước ta. Người viết báo suốt cả đời Cách mạng từ năm 1919 đến năm 1969. Bài báo cuối cùng của Bác là: Nâng cao đạo đức Cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Phong cách văn chương của Bác được người đời phát hiện rất sớm. Năm 1924, một nhà văn hóa nổi tiếng của Liên Xô đã nhận xét: Nguyễn Ái Quốc là một nhà văn hóa lớn của tương lai. Phong cách viết báo của Người thường đi thẳng vào đề, làm rõ tư tưởng trung tâm sự kiện bằng ngôn ngữ giản dị, ngắn gọn, ngôn ngữ thông tin đại chúng.
Bản sắc văn chương báo chí Cách mạng Việt Nam thể hiện nổi bật ở Chủ tịch Hồ Chí Minh - một nhà báo kiệt xuất.
28/6/2001: Ngày Gia đình Việt Nam Ngày 04/5/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 72/2001/QĐ-TTg về ngày Gia đình Việt Nam. Quyết định nêu rõ: lấy ngày 28/6 hàng năm là ngày Gia đình Việt Nam, nhằm đề cao trách nhiệm lãnh đạo các ngành, các cấp, các đoàn thể và tổ chức xã hội cùng toàn thể các gia đình thường xuyên quan tâm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, đẩy mạnh công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nguồn lichsuvietnam.vn
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH MỚI
Trong tài liệu sinh hoạt chi đoàn số 05/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên, các tổ chức Đoàn thông tin, cụ thể về việc tăng lương cơ sở lên 1.300.000 đồng/tháng từ ngày 01/7/2017, cụ thể như sau: Theo đó, mức lương cơ sở tăng từ 1.210.000 đồng/tháng lên thành 1.300.000 đồng/tháng; áp dụng với các đối tượng sau:
- Cán bộ, công chức quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm 2008.
- Cán bộ, công chức cấp xã quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm 2008.
- Viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập
- Người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động xếp lương theo Nghị định
204/2004/NĐ-CP của Chính phủ.
- Người làm việc chỉ tiêu biên chế trong các hội được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động quy định tại Nghị định
45/2010/NĐ-CP - Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ và công nhân, viên chức quốc phòng, lao động hợp đồng thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Sĩ quan, hạ sĩ quan hưởng lương, hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ, công nhân công an và lao động hợp đồng thuộc Công an nhân dân.
- Người làm việc trong tổ chức cơ yếu.
- Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn và tổ dân phố.
Nguồn thư viện pháp luật
MÔ HÌNH- KINH NGHIỆM
Tốt nghiệp đại học, 8X về quê ép trấu kiếm... tiền tỉ Tốt nghiệp đại học, Nguyễn Phương Nam không đi tìm việc mà về quê làm giàu với nghề ép trấu thành củi.
Ấp ủ từ giảng đường Những năm học đại học, Nguyễn Phương Nam (33 tuổi, xã Bình Thạnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) đọc được tài liệu cách chế biến trấu thành củi để làm chất đốt và giảm tối thiểu ô nhiễm môi trường. Nghĩ quê mình trấu dồi dào, thế là Nam nung nấu ý định khi tốt nghiệp đại học sẽ về quê làm củi trấu.
Từ ngày đó, Nam tìm kiếm các loại tài liệu liên quan đến chế biến trấu thành củi than có nhiệt lượng cao, có thể thay thế than trong các nhà máy công nghiệp để tham khảo. Lúc tốt nghiệp đại học, Nam lặn lội đến các tỉnh miền Tây, tìm đến các cơ sở chế biến củi trấu để tìm hiểu kinh nghiệm thực tế.
Năm 2009, Nam về quê xã Bình Thạnh (khu kinh tế Dung Quất, Quảng Ngãi) và bắt đầu lập nghiệp làm củi trấu. “Mới ra làm, tôi gặp nhiều khó khăn bởi vốn chỉ có 300 triệu đồng vay mượn từ anh em, trong khi đó phải đầu tư thuê mặt bằng, mua sắm máy móc, thiết bị sản xuất”, Nam chia sẻ.
Vượt qua cửa ải đầu tiên này, năm 2010, cơ sở chế biến củi than từ trấu đi vào hoạt động với một máy ép, mỗi ngày sản xuất ra 1,5 tấn củi trấu. Sản xuất rồi, Nam cùng các cộng sự đi tiếp thị bán cho các lò bánh mì, cơ sở hấp cá trên địa bàn, vậy mà không thể bán hết sản phẩm làm ra. Lý do duy nhất, các cơ sở chế biến công nghiệp lúc này chưa biết gì về củi than từ trấu.
Tuy nhiên, sau một thời gian, tiếng lành đồn xa khi các cơ sở mua củi trấu của Nam khen tiện ích và tiết kiệm. Vậy là các nhà máy tìm đến. Lúc này, sản phẩm làm ra “cháy hàng”, Nam tăng thêm công suất, mua thêm máy ép củi than và mở rộng nhà xưởng từ 100m
2 ban đầu lên đến 1.000m
2, với 3 máy ép, sản xuất 5 tấn/ngày. Thấy sản phẩm làm ra được thị trường chào đón, Nam bàn với anh ruột là Nguyễn Tiến Việt thành lập Công ty TNHH một thành viên Hùng Nam, chuyên sản xuất củi than từ trấu với số vốn 4,8 tỉ đồng, gấp hơn 15 lần so với ban đầu.
Để có nguồn nguyên liệu làm than củi từ trấu, Nam đi thu mua tại các cơ sở xay xát gạo trong và ngoài tỉnh Quảng Ngãi. Cách làm này đã tăng giá trị của trấu lên rõ ràng: Nếu trước đây, các nhà máy xay xát cho hoặc lén mang trấu đi đổ thì nay được Công ty Hùng Nam đặt tiền mua với giá 500 đồng/kg. Theo Nam, sở dĩ người ra dùng củi trấu nhiều là nhờ sản phẩm này vừa rẻ, vừa không độc hại so với than đá. Cứ một thanh củi trấu dài 40 cm, nặng khoảng 2 kg được bán với giá 1.600 đồng. Sản phẩm của Nam đã được huyện Bình Sơn công nhận là sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp huyện từ năm 2014 đến nay.
Hết trấu đến than Thành công với sản xuất than củi trấu, Nam lại tìm tòi sản xuất than tổ ong không độc, không khói, mục đích cũng là hạn chế ô nhiễm môi trường và bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng.
Để học nghề, Nam ra tận Hà Nội, được một đơn vị ở đây chuyển giao công nghệ. Tháng 8/2015, Nam đầu tư 1,5 tỉ đồng để mua sắm máy móc, thiết bị sản xuất rồi ra tận Quảng Ninh mua than nguyên liệu. Nói về sản xuất than sạch, Nam cho biết tại các quán ăn, nhà hàng thường dùng than tổ ong hoặc hoặc than củi chưa được khử độc nên có mùi hôi, nhiều khói, nhất là các món nướng trên lửa than sẽ không tốt cho sức khỏe. Trong khi đó, than sạch do công ty làm ra khi đốt cháy không sinh ra mùi, ít khói và không làm cay mắt, đặc biệt là không độc và thời gian sử dụng đến 10 giờ, sẽ tiện dụng rất nhiều.
Khi đi vào vận hành, do chưa có thị trường, cơ sở của Nam chỉ sản xuất 2 tấn than sạch/hầm sấy/ngày. Hai tháng sau, sản phẩm than sạch của công ty Nam đã mở rộng ra các tỉnh, thành phố: Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Quảng Nam và Bình Định. Công suất hoạt động cũng nâng lên với 5 hầm sấy/ngày.
Hiện Công ty TNHH một thành viên Hùng Nam có doanh thu trên 4 tỉ đồng/năm, trong đó, trừ tất cả chi phí thì lãi gần 1 tỉ đồng/năm. Ngoài ra, những lao động của công ty cũng có thu nhập từ 5,5 - 6 triệu đồng/tháng. Nam cho hay đang có kế hoạch tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất, thực hiện các thủ tục đăng ký bảo hộ sản phẩm, nhãn hiệu để củi trấu, than sạch Hùng Nam vươn xa hơn trên thị trường.
Nguồn: thanhgiong.vn
THANH NIÊN VÀ NGHỀ NGHIỆP
6 kỹ năng làm việc không được dạy trong trường lớp Kinh doanh kiếm tiền quả là một thế giới khác lạ so với những gì được học trong trường lớp và một trong những minh chứng rõ nét là có những kỹ năng làm việc không được dạy trong trường lớp nhưng lại vô cùng quan trọng cho công việc mỗi người.
Do vậy mà nhiều người dù học hành rất giỏi lại không thành công trong kinh doanh và ngược lại, có những người chật vật lắm mới ra trường được nhưng lại không mất nhiều thời gian để đạt được những thành công trong công việc.
Nguyên nhân của nó là có những kỹ năng làm việc không được dạy trong trường lớp. Đó là những kỹ năng rất cần thiết mà ai may mắn học được thì sẽ thành công.
Các chuyên gia kinh tế của Hãng tư vấn nghề nghiệp kinh doanh CareerBuilder - hãng đã có nhiều công trình nghiên cứu, điều tra cùng nhiều bài viết và sách về các đề tài nóng bỏng hiện nay như chiến lược kinh doanh, quản lý nhân sự, xu hướng nghề nghiệp thời hiện đại- đã đưa ra bản tổng kết về 6 kỹ năng làm việc không được dạy trong trường lớp nhưng lại vô cùng quan trọng cho công việc mỗi người.
1. Kỹ năng phát triển mình thành người của thương trường Đó là kỹ năng tự coi mình như một nhân tố thông thường của thương trường và do vậy, luôn biết cách để tiếp thị chính bản thân mình với người khác.
Đây thực sự là một kỹ năng khó, bởi ranh giới giữa tiếp thị chính bản thân mình và tự kiêu, khoác lác là rất mong manh và dễ bị hiểu nhầm.
2. Kỹ năng xây dựng những mối quan hệ có lợi Trường học thường bắt học sinh mặc đồng phục và những việc làm tương tự một phần là để tạo môi trường bình đẳng giữa học sinh với học sinh. Chính vì vậy, không ai dạy bạn cách chơi với người này để được lợi và ngược lại.
Nhưng thương trường không được như thế, nếu không có những mối quan hệ có lợi, công việc của bạn hiển nhiên không dễ dàng bằng những người có quan hệ tốt với những người có liên quan tới công việc.
Cần lưu ý, quan hệ đây không phải là lợi dụng. Đơn giản, nếu bạn không quen một VIP, cơ hội hẹn gặp của bạn sẽ khó hơn người có quen biết. Hoặc nếu bạn không quen với một kỹ sư giỏi, cơ hội để có sự phục vụ của anh ta cho công ty bạn có thể sẽ ít hơn công ty đối thủ với chế độ tương đương mà quan hệ thân quen hơn.
3. Kỹ năng làm việc chuyên nghiệp Có thể bạn học được rất nhiều kiến thức sâu rộng. Có thể bạn cũng biết hoạch định những mục tiêu cho tương lai, cho cuộc đời.
Song những kỹ năng làm việc chuyên nghiệp lại là điều rất thiếu ở những người mới ra trường, bởi đó là những điều ít được dạy trong trường lớp.
Những kỹ năng làm việc chuyên nghiệp có thể là cách giao tiếp hiệu quả mà ngắn gọn, cách quản lý quỹ thời gian, cách phối hợp với đồng nghiệp, đệ trình và đề xuất với cấp trên hay thậm chí chỉ là những kỹ năng nhỏ như lưu trữ tài liệu...
4. Kiên định với mục tiêu dù môi trường thay đổi Không nghi ngờ gì nữa, đó là điều kiện tiên quyết cho mỗi thành công trong thương trường hiện nay. Bởi thương trường rộng lớn phức tạp luôn đầy rẫy những thử thách đủ làm chùn bước các doanh nhân.
Ở trong trường lớp, môi trường ít thay đổi và dù có thay đổi mục tiêu (đổi môn học, khoa thi...) thì hậu quả cũng không nghiêm trọng lắm. Do vậy, kỹ năng này rất thiếu ở những người mới ra trường.
5. Kỹ năng kêu gọi sự trợ giúp của người khác Ở trong trường lớp, người giỏi hơn sẵn sàng giúp người khác học bài, hoàn thành tiểu luận... một cách tự nguyện và miễn phí. Do vậy người thụ động, không giỏi trong việc kêu gọi sự trợ giúp của người khác vẫn có thể có những sự giúp đỡ tận tình.
Song trong công việc và thương trường không có chuyện đó. Nếu thụ động và không giỏi trong việc kêu gọi sự trợ giúp của người khác thì chẳng ai trợ giúp cho công việc của bạn.
Để làm được điều này, nguyên tắc cần nhớ là đôi bên cùng có lợi (win-win), và bạn phải chứng tỏ được sự có lợi đó cho người bạn muốn cộng tác.
6. Phát triển nghề nghiệp lên những nấc thang mới Cần kiểm điểm lại quá trình làm việc của mình và luôn đặt ra những mục tiêu mới, cao hơn và khó khăn hơn nhưng thành quả lớn hơn. Có như vậy, công việc của bạn mới tiến triển tốt, tiền của cũng sẽ tăng tỷ lệ thuận. Điều này khác hẳn với khi bạn ở trường lớp, nơi các mục tiêu thường cũng chỉ quanh quẩn trong những nấc thang cố định như học khá, học giỏi, thi đậu, điểm cao, học bổng
Trong thương trường rộng lớn và phức tạp, có nhiều hơn rất nhiều những nấc thang để bạn phấn đấu, và buộc phải phấn đấu nếu không muốn tụt hậu.
Nguồn: kynang.com.vn
THANH NIÊN VÀ PHÁP LUẬT
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 05/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên nội dung Luật số 86/2015/QH13, ngày 19/11/2015 của Quốc hội ban hành Luật an toàn thông tin mạng, nội dung như sau: Luật An toàn thông tin mạng có 8 chương 54 điều, quy định về hoạt động an toàn thông tin mạng; quyền, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm an toàn thông tin mạng; mật mã dân sự; tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn thông tin mạng; kinh doanh trong lĩnh vực an toàn thông tin mạng; phát triển nguồn nhân lực an toàn thông tin mạng; quản lý Nhà nước về an toàn thông tin mạng.
Về nguyên tắc bảo đảm an toàn thông tin mạng, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo đảm an toàn thông tin mạng. Hoạt động an toàn thông tin mạng của cơ quan, tổ chức, cá nhân phải đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, bí mật Nhà nước, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
Tổ chức, cá nhân không được xâm phạm an toàn thông tin mạng của tổ chức, cá nhân khác. Việc xử lý sự cố an toàn thông tin mạng phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, không xâm phạm đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của cá nhân, thông tin riêng của tổ chức. Hoạt động bảo đảm an toàn thông tin mạng phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, kịp thời và hiệu quả.
Nhà nước ban hành chính sách về an toàn thông tin mạng qua các nội dung đẩy mạnh đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng cơ sở hạ tầng, kỹ thuật an toàn thông tin mạng đáp ứng yêu cầu ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Nhà nước khuyến khích nghiên cứu, phát triển, áp dụng biện pháp kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ xuất khẩu, mở rộng thị trường cho sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng do tổ chức, cá nhân trong nước sản xuất, cung cấp; tạo điều kiện nhập khẩu sản phẩm, công nghệ hiện đại mà tổ chức, cá nhân trong nước chưa có năng lực sản xuất, cung cấp.
Đồng thời, Nhà nước bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động kinh doanh sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng; khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, nghiên cứu, phát triển và cung cấp sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng.
Luật cũng quy định thống nhất thời hạn cho giấy phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng là 10 năm.
Luật An toàn thông tin mạng có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016.
Nguồn: Chinhphu.vn
BÀI HÁT THANH NIÊN
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số tháng 05/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên lời bài hát “Ai Yêu Bác Hồ Chí Minh Hơn Thiếu Niên Nhi Đồng” Ai Yêu Bác Hồ Chí Minh Hơn Thiếu Niên Nhi Đồng Sáng tác: Phong Nhã Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng
Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng
Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng
Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn thiếu nhi Việt Nam
Bác chúng em dáng cao cao, người thanh thanh
Bác chúng em mắt như sao, râu hơi dài
Bác chúng em nước da nâu vì sương gió
Bác chúng em thề cương quyết trả thù nhà
Hồ Chí Minh kính yêu, chúng em kính yêu Bác Hồ Chí Minh trọn một đời
Hồ Chí Minh kính yêu Bác đã bao phen bôn ba nước ngoài vì giống nòi
Bác nay tuy đã già rồi; Già rồi nhưng vẫn vui tươi; Ngày ngày chúng cháu ước mơ
Mong sao Bác sống muôn đời để dẫn dắt nhi đồng thành người
và kiến thiết nước nhà bằng Người
Hồ Chí Minh kính yêu, chúng em kính yêu Bác Hồ Chí Minh trọn một đời
Hồ Chí Minh kính yêu, chúng em ước sao Bác Hồ Chí Minh sống muôn đời.
ĐỊNH HƯỚNG SINH HOẠT CHI ĐOÀN
1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục của Đoàn, trong đó tăng cường triển khai kế hoạch hành động thực hiện chỉ thị 42 CT/TW, ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 - 2030”.
2. Tiếp tục tuyên truyền Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, chuyên đề năm 2017 “
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; các nội dung về xây dựng giá trị hình mẫu thanh niên thời kỳ mới và Nghị quyết Trung ương 4 của BCH Trung ương Đảng khóa XII
. 3. Tập trung tuyên truyền và tổ chức các hoạt động có ý nghĩa Quốc tế thiếu nhi, Tháng hành động vì trẻ em năm 2017 “Phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em”; kỷ niệm 45 năm ngày môi trường thế giới (05/6/1972- 05/6/2017); kỷ niệm 106 năm Ngày Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước (05/6/1911- 05/6/2017), Ngày toàn dân phòng chống ma túy 26/6….
4. Tiếp tục tuyên truyền Nghị quyết Đại hội Đoàn các cấp, các cuộc thi, hội thi, diễn đàn…. chào mừng Đại hội Đoàn tỉnh Quảng Nam lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2017 – 2022.
5. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền những nội dung cơ bản, những điểm mới và các giải pháp được nêu trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã được thông qua; nội dung cụ thể tinh thần của Nghị quyết vào chương trình hành động của Đoàn thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Thăng Bình lần thứ XX và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
6. Tuyên truyền việc tổ chức các hoạt động thiết thực cho cán bộ Đoàn, đoàn viên, hội viên, thanh niên trong Chiến dịch Thanh niên tình nguyện hè huyện Thăng Bình năm 2017.