HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng Hồ Chí Minh với thương binh, liệt sỹ vẫn luôn là bài học quý giá
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc đối với thương binh, gia đình liệt sỹ. Tình thương bao la ấy của Người là bài học vô cùng quý giá, trường tồn với thời gian.
Trong cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho đất nước của Nhân dân ta, có biết bao nhiêu chiến sỹ cộng sản, quần chúng yêu nước đã ngã xuống, hy sinh nơi chiến trường khốc liệt để xây nên giang sơn gấm vóc hôm nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Máu đào của các liệt sỹ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của liệt sỹ đã làm cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sỹ…” Chiến tranh kết thúc, có những người con đã trở về từ trận tuyến, nhưng cũng có không ít những người mãi mãi ra đi, lại có những người đã để lại một phần máu thịt của mình - các anh trở về với những thương tật trên cơ thể vì lý tưởng cách mạng cao đẹp.
Tháng 6/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm làm “Ngày thương binh” để Nhân dân ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh, gia đình liệt sỹ và những người có công với đất nước. Thực hiện chỉ thị của Người, Hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, ban, ngành ở trung ương và địa phương đã họp ở xã Phú Minh (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) bàn bạc, nhất trí đề nghị lấy ngày 27/7/1947 làm “Ngày thương binh, liệt sỹ”. Từ đó, ngày 27/7 hàng năm trở thành “Ngày thương binh, liệt sỹ” trong cả nước.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến thương binh, liệt sỹ - những người đã cống hiến xương máu, hy sinh tính mạng của mình để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho Nhân dân. Dù bận trăm công nghìn việc nhưng Người vẫn luôn dành thời gian để quan tâm, thăm hỏi, động viên các đồng chí thương binh, liệt sỹ cùng gia đình họ. Nội dung tư tưởng, những tình cảm thiêng liêng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho thương binh, liệt sỹ được thể hiện một cách nhất quán, xuyên suốt, cụ thể, thiết thực trong rất nhiều bài nói, bài viết, trong hành động và việc làm của Người.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác thương binh, liệt sỹ là một hình thức xây dựng “tượng đài kỷ niệm” trong lòng dân chúng để các thế hệ kế tiếp ghi nhớ công ơn, chiến công của những con người ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc và cuộc sống yên bình của Nhân dân. Tư tưởng này được thể hiện rõ nhất trong các bức thư Hồ Chí Minh viết nhân dịp ngày 27/7. Trong lá thư đầu tiên, Người nhấn mạnh đến mục đích cao cả này với những lời thống thiết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sỹ mà nay một số thành ra thương binh.
Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”
Từ những rung động sâu sắc tận đáy lòng, thương tiếc và trân trọng, Người đi đến một quan niệm khái quát về thương binh, liệt sỹ. Đó là những người “quyết hy sinh tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh của đồng bào. Họ hy sinh gia đình và tài sản của họ để bảo vệ gia đình và tài sản của đồng bào.
Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống.
Họ là những chiến sỹ anh dũng của ta.
Trong đó, có người đã bỏ lại một phần thân thể ở trước mặt trận. Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là những thương binh, đó là tử sỹ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá chính xác ý nghĩa và giá trị của sự hy sinh vì độc lập, tự do của các chiến sỹ. Người nâng công tác thương binh, liệt sỹ lên ngang tầm một hoạt động văn hóa, như là một sự kế tục, ở quy mô toàn xã hội, truyền thống nhân nghĩa “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, “ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc Việt Nam.
Đặc trưng nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thương binh, liệt sỹ là chủ nghĩa nhân văn mà cốt lõi là lòng thương người. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, lòng thương người phát triển với mức độ cao; nó đồng nghĩa với việc thực hiện các quyền cơ bản về sự phát triển toàn diện của con người. Từ lòng yêu thương những người nghèo khổ ở quê hương, những người đi phu làm đường Cửa Rào (Nghệ An) bị đánh đập, đói khát, đồng bào bị áp bức, bóc lột, Nguyễn Ái Quốc mở rộng đến sự thông cảm, yêu thương tất cả Nhân dân lao động trên thế giới, kính trọng những người dũng cảm hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình. Người đã khóc khi nghe tin Thị trưởng Cóoc - một nhà yêu nước Ai-xơ-len bị bắt cầm tù đã tuyệt thực đến chết và nghĩ đến tấm gương hy sinh của nhà yêu nước Việt Nam Tống Duy Tân “thà chết không đầu hàng”. Từ đó, Người đi đến nhận thức rằng, cái chết của họ làm cho Tổ quốc họ sống lại, lòng can đảm của họ bất diệt.
Lòng thương người gắn với lòng kính yêu thương binh, liệt sỹ quyện chặt vào nhau, nâng cao ý thức giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng của đất nước, dân tộc. Không phải sự mất mát nào cũng làm chúng ta kính trọng, học tập, dù có thương cảm, mủi lòng, ngoại trừ hy sinh cho đất nước, làm cho cuộc sống hiện tại và tương lai mãi mãi tồn tại và phát triển. Đó là những cái chết làm nên sự sống và trở thành bất tử. Tình cảm thân thiết, tình nghĩa đồng chí, đồng đội được cô đọng, thể hiện trong “Bài điếu đồng chí Hồ Tùng Mậu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 01/8/1951: “Tôi với chú là đồng chí, lại là thân thiết hơn anh em ruột. Khi hoạt động ở đất khách quê người, khi bị giam ở lao tù đế quốc, khi đấu tranh ở nước nhà, hơn 25 năm, đã bao phen chúng ta đồng cam cộng khổ, như tay với chân... Mất chú, đồng bào mất một người lãnh đạo tận tụy, Chính phủ mất một người cán bộ lão luyện, Đoàn thể mất một người đồng chí trung thành và tôi mất một người anh em chí thiết. Mấy nguồn thương tiếc, cộng vào trong một lòng tôi!”. Tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thương binh, liệt sỹ không chỉ là sự tiếc thương, ngậm ngùi, đau xót và tự hào, mà còn gợi lên tinh thần bất khuất, làm hồi sinh sức sống mãnh liệt của cả dân tộc, của những người hy sinh, cống hiến một phần cơ thể của mình cho đất nước. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta nhận thấy rằng, Người đã làm cho sự hy sinh, mất mát của liệt sỹ, thương binh, gia đình, dân tộc càng thêm cao đẹp hơn bằng cách gắn sự tổn thất này vào ý thức của những người còn sống về nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với những người đã hy sinh, những mất mát của những người đã chiến đấu và gia đình họ. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho những điều vinh quang càng vinh quang và đáng tự hào hơn, trách nhiệm của những người còn sống, trách nhiệm của các gia đình và Nhân dân càng nặng nề hơn.
Chính vì thế, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giúp đỡ thương binh không mang ý nghĩa nhất thời, về lâu dài, cơ bản và quyết định là tạo mọi điều kiện cho họ có khả năng hòa nhập tự nhiên, thích nghi với đời sống cộng đồng, có công cụ để hoạt động phù hợp với khả năng từng đối tượng, bảo đảm cuộc sống cho họ và gia đình. Ngoài những việc làm nghĩa cử của bản thân, đối với thương binh, liệt sỹ, Người cũng nhấn mạnh: Để phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” trở thành một phong trào có sức lan tỏa sâu rộng trong thực tiễn, có hiệu quả và thiết thực, toàn Đảng, toàn dân phải vinh danh, ghi nhận công lao to lớn của thương binh, liệt sỹ và làm tốt hơn nữa công tác “Đền ơn đáp nghĩa”. Nhiều tổ chức hội như “Hội mẹ chiến sỹ”, “Hội ủng hộ thương binh”,… được thành lập; nhiều phong trào như “Phong trào Trần Quốc Toản”, “Đón thương binh về làng”,… được phát động rộng rãi, góp phần cùng Đảng và Nhà nước chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, thắt chặt thêm tình quân dân như “cá với nước”.
Trước lúc đi xa, trong Di chúc thiêng liêng của Người, Bác Hồ của chúng ta đã căn dặn biết bao điều hệ trọng về công tác lao động - thương binh và xã hội: “Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào ta phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sỹ, thì mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho Nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sỹ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.
Hơn hết, trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác thương binh, liệt sỹ là một loại chính sách xã hội đặc biệt, thu hút sự tham gia của mọi đối tượng dân cư, mọi ngành, mọi giới; không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là tình cảm, lương tri sống ở đời và làm người, nói lên bản chất ưu việt của chế độ xã hội, nét đẹp văn hóa ứng xử, đạo lý sống của người Việt Nam. Trong các lực lượng xã hội tham gia làm công tác thương binh, liệt sỹ, Đảng Cộng sản phải là người khởi xướng, lãnh đạo thông qua hệ thống các chủ trương, đường lối và chính sách.
Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người tích cực đi đầu thực hiện công tác thương binh, liệt sỹ. Ngay từ tháng 11/1946, Người đã ra thông báo về việc nhận con các liệt sỹ làm con nuôi, hàng năm đều có thư thăm hỏi động viên, khuyến khích thương binh, gia đình liệt sỹ. Trong vòng 22 năm (1947 - 1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 14 lần gửi quà, tiền nhân ngày thương binh, liệt sỹ. Quà tặng thường là những đồ dùng thiết yếu (quần áo, khăn mặt, vải, thuốc men, chăn...) và tiết kiệm tiền lương gửi vào quỹ thương binh toàn quốc. Việc làm của Người vừa thiết thực, vừa tạo thành một phong trào xã hội rộng lớn với nhiều hình thức phong phú và vô cùng cảm động đã thu hút đông đảo các tầng lớp Nhân dân tham gia.
Hàng năm, đều đặn cứ vào dịp tháng 7, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sỹ, một mặt khẳng định công lao, đóng góp của họ, một mặt động viên họ: “Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương, cũng như các đồng chí đã từng là chiến sỹ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận”, để mỗi “thương binh tàn nhưng không phế”.
Trong mọi hoàn cảnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh: Giúp thương binh lâu dài, chứ không phải chỉ giúp trong một thời gian. Không phải giúp bằng cách góp gạo nuôi thương binh, những biện pháp hỗ trợ trước mắt mà bằng cả một hệ thống giải pháp căn cơ, lâu dài, trên mọi phương diện, từ việc làm đến thu nhập, từ việc học đến đào tạo nghề, từ giúp đỡ, hỗ trợ của tập thể đến phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi cá nhân…
Những quan điểm cơ bản và tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác thương binh, liệt sỹ đã được Đảng và Chính phủ ta vận dụng, kế thừa, phát huy và cụ thể hóa thành nhiều chương trình, chính sách giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sỹ hiện nay. Trong suốt 70 năm qua, phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” và lời căn dặn của Người, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến các đối tượng thương binh, thân nhân gia đình liệt sỹ. Các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” ngày càng đi vào chiều sâu và xã hội hóa cao. Các phong trào xây dựng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa, Quỹ đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm sóc con liệt sỹ mồ côi, đi tìm hài cốt đồng đội, tu sửa, nâng cấp các nghĩa trang, đài tưởng niệm liệt sỹ,... ngày càng thu hút sự tham gia của toàn xã hội trong phạm vi cả nước, đều bắt nguồn từ bản chất tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Nguồn: tapchicongsan.org.vn
DI TÍCH LỊCH SỬ TẠI THĂNG BÌNH
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 7/2019, chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn đoàn viên thanh niên, các tổ chức Đoàn về Di tích lịch sử “Địa điểm cơ sở cách mạng nhà ông Phan Tựu” .
Địa điểm di tích nằm tại Tổ 11, thôn 3, xã Bình Dương, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
Nhà ông Phan Tựu là một trong những nơi được lãnh đạo huyện Thăng Bình và xã Bình Dương chọn làm cơ sở bí mật để lãnh đạo tỉnh, huyện và xã trú ẩn, tổ chức và lãnh đạo phong trào cách mạng trong những năm 1954 – 1970. Nhà ông Phan Tựu tại thôn 3, xã Bình Dương, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, được xây dựng từ năm 1940, nguyên là nhà rường gỗ 5 gian 2 chái lợp ngói theo kiến trúc nhà cổ Việt Nam trong khu vườn rất rộng và đẹp. Tháng 8 năm 1954, tại ngôi nhà này các đồng chí Phan Thảng – Chủ tịch hành chính kháng chiến của xã, Dương Tuận, Phan Dương, Phan Đinh, Nguyễn Nghệ, Phan Côn, Phan Bình …tụ họp để bàn việc tập kết các cán bộ đảng viên xã nhà và những đồng chí này là những người được Đảng cử đi miền Bắc tập kết bằng đường biển vào Quy Nhơn để thi hành hiệp định Giơnevơ. Do có chỉ điểm nên bọn Ngụy quyền đã cho cả trung đội lính tiến hành vây ráp cán bộ của ta và đã nổ súng truy tìm, nhưng được sự đấu tranh và giải cứu kịp thời của bà con hàng xóm, nên nhiều người lẫn trốn trên xối nhà và sau đó trốn thoát ra biển vào Quy Nhơn để tập kết, không ai bị địch bắt.
Tại đây, vào năm 1964 đã diễn ra các cuộc họp bàn và phát lệnh khởi nghĩa giải phóng vùng Đông lần thứ nhất vào ngày 05.5.1964 và khởi nghĩa giải phóng vùng Đông lần thứ hai ngày 05.9.1964.
Từ năm 1964 đến cuối năm 1970, nơi đây được chọn làm trung tâm chỉ huy, hội họp của tỉnh Quảng Nam, huyện Thăng Bình, thị xã Hội An, các đơn vị chủ lực của tỉnh, bộ đội địa phương và là nơi đặt trạm phẫu địa phương của Ban Dân y Khu V…
Từ cuối năm 1965 đến năm 1967, cơ quan Huyện ủy Thăng Bình đóng tại nhà ông Phan Tựu để chỉ đạo phong trào cách mạng vùng Đông. Đặc biệt, tại đây vào tháng 7 năm 1967 Hội nghị Huyện ủy Thăng Bình được tổ chức với hơn 60 đại biểu tham dự. Hội nghị đã quyết định nhiệm vụ “….Phải ra sức tăng cường xây dựng thực lực đấu tranh, giữ vững vùng giải phóng, chuẩn bị mọi mặt để phối hợp với chiến trường đẩy mạnh hoạt động giành thắng lợi to lớn hơn nữa”. Hội nghị đã bầu bổ sung Ban Chấp hành Đảng bộ huyện….Nhà ông Phan Tựu là một trong những cơ sở cách mạng tiêu biểu của huyện góp phần vào sự thành công của công cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, giải phóng dân tộc. Nơi đây ghi nhiều dấu ấn gắn với phong trào cách mạng của xã trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là cơ sở hoạt động mật, trụ sở chỉ huy, nơi hội họp của Đảng và cách mạng, đặc biệt là nơi Huyện ủy tổ chức Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ lần thứ 7.
Nhân dân Thăng Bình tự hào có những đảng viên, cán bộ tiêu biểu đã hy sinh oanh liệt như Lê Quang Cảnh, Trương Thị Xáng, Lâm Hoàng Diệu, Nguyễn Suyền, Nguyễn Tùng, Trương Thúc Thành, ... và cũng đầy lòng biết ơn những gia đình có công với cách mạng như bà Hưỡn, ông Phan Tựu, bà Lức, Bà Chương...
Năm 1975, kháng chiến thắng lợi, đất nước hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối, trong sự đóng góp chung, không thể không kể đến những đóng góp của gia đình ông Phan Tựu.
Di tích lịch sử “Địa điểm cơ sở cách mạng nhà ông Phan Tựu” được UBND tỉnh Quảng Nam công nhận là di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 954/QĐ-UBND, ngày 27.3.2013.
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Thăng Bình
THEO DÒNG LỊCH SỬ
Những ngày đáng nhớ trong tháng 7:
- 02/7/1976: Kỷ niệm Ngày nước ta đổi quốc hiệu từ Việt Nam Dân chủ cộng hòa thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- 11/7: Kỷ niệm ngày Dân số thế giới.
- 15/7/1950: Kỷ niệm Ngày truyền thống thanh niên xung phong.
- 17/7/1966: Ngày Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
- 20/7/1954: Ngày ký hiệp định Giơnevơ.
- 27/7/1947: Kỷ niệm Ngày thương binh, liệt sỹ Việt Nam.
- 28/7/1929: Kỷ niệm Ngày thành lập công đoàn Việt Nam.
SỔ TAY NGHIỆP VỤ
“Làm thế nào để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi đoàn”
Có một thực tế đang đặt ra với công tác Đoàn đó là chất lượng hoạt động đoàn ở một số cơ ở đoàn còn thấp, chưa thu hút được đoàn viên thanh niên tham gia. Nguyên nhân chính vẫn là thiếu tính hấp dẫn trong nội dung và hình thức sinh hoạt chi đoàn.
Vì vậy, đẩy mạnh chất lượng đoàn từ cấp cơ sở đang được các cấp bộ Đoàn quan tâm, trong đó đề cao hiệu quả sinh hoạt chi đoàn. Vậy để làm tốt một buổi sinh hoạt chi đoàn, chúng ta cần phải làm gì và làm như thế nào?
Thực trạng hoạt động của cấp chi đoàn có chiều hướng giảm sút, có thể thấy được 3 nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trên đó là: Tại các chi đoàn không duy trì chế độ sinh hoạt Đoàn thường xuyên, các buổi sinh hoạt chi đoàn thường khô khan, thiếu hấp dẫn và cuối cùng là đội ngũ cán bộ Đoàn còn lúng túng về nội dung và hình thức sinh hoạt, từ những yếu tố trên dẫn đến các buổi sinh hoạt chi đoàn có ít thanh niên tham gia. Do đó để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi đoàn cũng như coi đây là nền tảng trong việc đoàn kết tập hợp thanh niên thì mỗi cấp bộ Đoàn cần hiểu và phân biệt rõ những điều cơ bản trong sinh hoạt chi đoàn, phải biết thế nào là sinh hoạt chi đoàn và sinh hoạt chi đoàn để làm gì?
Thực tế cho thấy, tại các chi đoàn thường bị nhầm lẫn giữa họp chi đoàn và sinh hoạt chi đoàn từ đó dẫn đến cách thức và hình thức tổ chức buổi sinh hoạt chi đoàn thường khô khan, thiếu hấp dẫn. Có thể hiểu sinh hoạt chi đoàn là một hình thức tập hợp đoàn viên thanh niên qua đó thảo luận và quyết định các chủ trương, chương trình công tác Đoàn của đơn vị. Tuy nhiên cách hiểu này chưa toàn diện mà chỉ phù hợp nội dung sinh hoạt để phổ biến công tác và phổ biến đánh giá hoạt động hàng tháng, nếu cứ tiến hành thường xuyên theo cách trên sẽ dẫn đến sự nhàm chán. Hoặc có thể hiểu sinh hoạt chi đoàn theo một ý nghĩa khác, đó là một buổi sinh hoạt về chính trị, thời sự, văn hóa văn nghệ, khoa học, kỹ thuật, chuyên môn nhằm mục đích giáo dục của chi đoàn. Cách hiểu này phù hợp với tình hình hiện nay khi chúng ta chủ trương đa dạng hóa các loại hình hoạt động của đoàn viên thanh niên.
Đối với họp chi đoàn, thường chỉ có đoàn viên của đơn vị để góp ý, thảo luận các nội dung trước khi đưa ra sinh hoạt chi đoàn trước toàn thể đoàn viên thanh niên cùng cấp uỷ, Đoàn cấp trên. Chính từ sự nhầm lẫn trên nên tính phong phú, đa dạng tại các chi đoàn chưa có, dẫn đến không tập hợp được thanh niên tham gia vào tổ chức Đoàn.
Vậy sinh hoạt chi đoàn để làm gì và như thế nào?
Khi tổ chức một buổi sinh hoạt chi đoàn, BCH chi đoàn cần phải giải quyết 3 vấn đề sau: Một là giải quyết những yêu cầu của xã hội; Hai là phải đáp ứng được những nhu cầu nội tại của bản thân tổ chức Đoàn như công tác xây dựng Đảng, Đoàn; Ba là phải áp dụng được những nhu cầu đoàn viên thanh niên trong chi đoàn. Sau khi nắm vững những điều trên thì chúng ta mới đi sâu vào nội dung hình thức sinh hoạt chi đoàn sao cho phù hợp.
Để nội dung sinh hoạt chi đoàn thiết thực, thực sự thu hút đoàn viên thanh niên, khi chuẩn bị sinh hoạt BCH chi đoàn cũng cần căn cứ vào 3 nội dung chủ yếu sau:
- Thứ nhất: Sinh hoạt chi đoàn theo chủ đề.
- Thứ hai: Sinh hoạt chi đoàn theo chương trình công tác của tháng, quý.
- Thứ ba: Sinh hoạt chi đoàn để nâng cao tính chiến đấu của tổ chức Đoàn.
Song, đối với thanh niên cần phải đa dạng hóa hình thức nhưng để đảm bảo chất lượng và hiệu quả thì các chi đoàn cũng cần phải tuân theo các bước trên để có thể đảm bảo đầy đủ nội dung trong một buổi sinh hoạt chi đoàn.
Bên cạnh việc đảm bảo nội dung thì các chi đoàn cũng cần đa dạng hóa hình thức sinh hoạt sao cho phù hợp, thu hút đông đảo thanh niên tham gia vào tổ chức. Hầu hết các chi đoàn đều tổ chức sinh hoạt tại nhà văn hóa của thôn, ấp - chính vì điều này cũng làm hạn chế về hình thức sinh hoạt. Có thể nhận thấy rằng, nếu chỉ tổ chức trong một không gian bó hẹp sẽ hạn chế sự năng động của thanh niên. Hình thức sinh hoạt rất đa dạng tuy nhiên để thực hiện được điều này đòi hỏi sự năng động của đội ngũ cán bộ Đoàn. Có thể tổ chức sinh hoạt chi đoàn tại các khu di tích, trong những thời gian nghỉ ngơi của một buổi lao động hoặc có thể nhân dịp sinh nhật của đoàn viên kết hợp tổ chức sinh hoạt nhưng phải đảm bảo sự nhẹ nhàng, thoải mái. Ngoài ra tuỳ vào mỗi điều kiện tại từng địa phương có thể tổ chức sinh hoạt chi đoàn luân phiên tại nhà của các đoàn viên. Trên cơ sở sự linh động đó, chúng ta linh động cả về hình thức sinh hoạt không nhất thiết cứ phải cứng nhắc theo trình tự mà hãy làm nhẹ để làm sao khi đi sinh hoạt đoàn viên thanh niên có cảm giác thích thú, phấn khởi mỗi khi được mời tham gia sinh hoạt tại chi đoàn. Đặc biệt trong sinh hoạt chi đoàn cũng không thể thiếu hoạt động văn nghệ, trò chơi để tạo bầu không khí sôi nổi qua đó xen kẽ những nội dung cần truyền đạt đến đoàn viên thanh niên.
Để chất lượng công tác Đoàn ở cơ sở ngày một vững mạnh, nhất thiết hoạt động tại các chi đoàn cần có sự đồng bộ về cách thức tổ chức và hoạt động, do đó mỗi chi đoàn cũng cần nâng cao chất lượng trong mỗi buổi sinh hoạt chi đoàn, tạo nền tảng và tính hấp dẫn để đoàn kết tập hợp thanh niên vào tổ chức Đoàn - Hội ngày một đông hơn.
Nguồn:tuoitreboxaydung.vn
MÔ HÌNH- KINH NGHIỆM
Anh Nguyễn Thanh Quốc, thanh niên làm kinh tế giỏi cư ngụ thôn Suối Đá (xã Lợi Hải, huyện Thuận Bắc)
Bằng ý chí, quyết tâm làm giàu, ở độ tuổi 30, anh Nguyễn Thanh Quốc cư ngụ thôn Suối Đá (xã Lợi Hải, huyện Thuận Bắc) đã làm chủ một trang trại có quy mô diện tích hơn 2 ha. Trong quá trình xây dựng, anh Thanh Quốc luôn tìm tòi, học hỏi, áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi nên trang trại của anh ngày càng phát triển và mở rộng.
Lúc đầu đàn gia súc anh nuôi có số lượng ít, chăn thả tự nhiên, không đạt chất lượng. Năm 2016, anh quyết tâm xây dựng trang trại theo mô hình vườn-ao-chuồng. Nhờ có ít kinh nghiệm chăn nuôi, học hỏi thêm, có được mảnh đất của gia đình cho, cùng với số vốn tích góp được, vay thêm người thân, bạn bè được 800 triệu đồng, anh mạnh dạn mở trang trại. Trong đó anh trồng 1,5 ha các loại cỏ xen canh chuối để chủ động nguồn thức ăn cho đàn gia súc; diện tích còn lại anh xây dựng chuồng heo, cừu, dê, bò, gà, đào ao thả cá và nuôi giun quế. Thời gian đầu, trang trại của anh có khoảng 10 con bò, hơn 100 con cừu, 100 con dê và 500 con gà.
Thực hiện quy trình sản xuất khép kín, ngoài cỏ, thân cây chuối, anh mua thêm bã mía làm thức ăn cho gia súc, sau đó lấy phân của gia súc nuôi giun quế, cá; dùng giun và cá trộn cùng với cỏ, bã mía, chuối làm thức ăn đàn gia súc… Bằng phương thức này, anh tiết kiệm hơn 60% kinh phí thức ăn so với cách nuôi thông thường. Để hạn chế dịch bệnh trên đàn gia súc, anh đầu tư làm hệ thống uống nước tự động; thường xuyên chăm sóc, kiểm tra tình hình dịch bệnh trên vật nuôi. Anh chia sẻ: Lúc mới thành lập, tôi gặp rất nhiều khó khăn về thức ăn cho đàn gia súc, thị trường tiêu thụ. Nhưng dần dần qua phương tiện truyền thông, tôi vừa làm, vừa học hỏi và tìm được nơi tiêu thụ sản phẩm tốt trong tỉnh và các tỉnh miền Tây. Nhờ quy trình chăn nuôi trên, đàn gia súc của anh phát triển khá tốt, giá cả ổn định, anh có được thành công bước đầu. Để sản phẩm của mình được biết đến rộng rãi, anh thành lập website giới thiệu, hướng dẫn cách nuôi gia súc, kỹ thuật trồng cỏ cho khách hàng tham khảo, nắm bắt.
Để nâng chất lượng đàn gia súc, anh mua nhiều giống cừu, dê khác nhau về nuôi, gây giống và trồng các giống cỏ mới… Đến nay, trang trại của anh có hơn 20 con bò, 60 con heo đen và heo lai rừng, 250 con cừu, 300 con dê, 2.000 con gà. Mỗi năm anh xuất chuồng bán gia súc, gia cầm thu nhập bình quân từ 400-500 triệu đồng/năm. Trang trại anh là một trong những cơ sở kinh doanh lớn của địa phương, chuyên cung cấp thịt và giống bò, dê, cừu. Song song với làm giàu cho bản thân, anh còn hỗ trợ người dân trong thôn con giống sản xuất. Cụ thể, anh hỗ trợ 100% giống cho người dân nuôi, đến khi xuất chuồng, sẽ chia cho trang trại của anh theo tỷ lệ 6/4, hiện có 8 hộ nghèo tham gia và đang có thêm thu nhập từ phương thức làm ăn này. Theo anh Thanh Quốc, trong thời gian tới anh sẽ tiếp tục mở rộng diện tích trồng cỏ lấy thức ăn cho đàn gia súc và phấn đấu cung cấp ra thị trường nhiều sản phẩm thịt cũng như con giống chất lượng hơn.
Ông Võ Ngọc Phương, Phó Chủ tịch UBND xã Lợi Hải cho biết: Anh Quốc là một gương thanh niên làm kinh tế giỏi điển hình của xã. Anh đã xây dựng cho mình lộ trình phát triển sản xuất chuyên nghiệp, bài bản nên đã gặt hái được thành công bước đầu. Đáng hoan nghênh hơn anh còn giúp đỡ các hộ nghèo có giống gia súc chăn nuôi để phát triển kinh tế gia đình.
Nguồn:Báo điện tử Nhân dân
BÀI HÁT THANH NIÊN
THANH NIÊN VIỆT NAM TIẾN BƯỚC
(Bài hát chính thức Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2017 – 2022)
Tác giả: Văn Luân
Nào bạn ơi vai sánh vai cùng nhau tiến bước
Xây đắp quê hương đẹp tươi muôn sắc hồng
Tuổi thanh xuân nguyện dâng hiến cho non sông
Tiến bước cha ông dạng danh dòng máu tiên rồng.
Tuổi trẻ ơi tay nắm tay cùng nhau đi tới
Tâm trí, sáng trong lòng mang bao khát vọng
Là thanh niên ngại chi gian khó trên đời
Chết mãi trong tim tình yêu Tổ quốc sáng ngời.
Ta mang trong tim khát vọng tuổi xuân
Những con thuyền vượt xa biển lớn
Mong sao mai đây đất mẹ Việt Nam
Thêm đẹp giàu rạng rỡ khắp năm châu.
Vẫn mãi sánh bước với trọn niềm tin
Mang cho đời niềm vui hạnh phúc
Sẽ vẫn tiến bước trên chặng đường xa
Dưới cờ Đoàn nhịp tim mãi sáng ngời