Thứ ba, 16/04/2024, 01:56|
CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 49 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2024) ................................... CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 70 NĂM CUỘC ĐẤU TRANH HÀ LAM - CHỢ ĐƯỢC (04/9/1954 - 04/9/2024)

TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN THÁNG 7,8,9/2017

Thứ tư - 05/07/2017 02:58
TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN THÁNG 7,8,9/2017
    
TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN
Số 06 -Tháng 7/2017

 
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Bác Hồ với thương binh, liệt sĩ
“Ăn quả phải nhớ người trồng cây. Trong cuộc tưng bừng vui vẻ hôm nay, chúng ta phải nhớ đến những anh hùng, liệt sĩ của Đảng ta, của dân ta”.
Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh tại buổi lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng đã nhắc nhở chúng ta, những người đang sống trong cảnh đất nước hoà bình, ghi nhớ công ơn to lớn của các đồng chí thương binh, liệt sĩ, những người đã vì nền độc lập, tự do của dân tộc, vì cuộc sống hạnh phúc của Nhân dân mà hy sinh thân mình hoặc bỏ lại một phần xương máu trên chiến trường.
 “Uống nước nhớ nguồn” là truyền thống đạo lý nhân ái có từ ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống tốt đẹp này đã và đang được Nhân dân ta phát huy từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, mà Bác Hồ là một tấm gương tiêu biểu nhất.
Sinh thời là Chủ tịch nước, mặc dù bận rất nhiều công việc để lãnh đạo Nhân dân ta kháng chiến và kiến quốc, nhưng hàng năm cứ đến ngày 27 tháng 7, “Ngày Thương binh, liệt sĩ” Bác đều gửi thư cho các đồng chí thương binh và gia đình liệt sĩ. Những bức thư của Người giản dị, chân thành. Đó là những lời động viên, an ủi, kêu gọi rất mộc mạc, nhưng cụ thể và thiết thực. Đọc những bức thư đó, ai cũng cảm nhận được tình cảm của Bác dành cho họ.
Trong Thông báo về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi, Bác viết:
“Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền Tự do, Độc lập và Thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến.
Tôi gửi lời chào thân ái cho các gia đình liệt sĩ đó, và tôi nhận con các liệt sĩ làm con nuôi của tôi”.
Khi được tin con trai bác sĩ Vũ Đình Tụng, Giám đốc Y tế Bắc Bộ hy sinh, trong thư chia buồn, Bác viết: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu tôi. Mất một thanh niên, thì hình như tôi đứt một đoạn ruột”.
Cách đây 70 năm, trong Thư gửi Ban Thường trực của Ban tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc”, 17/7/1947, Bác nói về ý nghĩa cao cả của ngày 27 tháng 7. Đó là “Một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, là tỏ ý yêu mến thương binh”. Bác là người đề xuất phong trào “Đón thương binh về làng” với những việc làm rất cụ thể. Bác khuyên các cháu thiếu nhi lập phong trào Trần Quốc Toản để giúp đỡ gia đình bộ đội và thương binh, v.v..
Bác kêu gọi đồng bào cả nước hãy thể hiện tình cảm thương yêu, trách nhiệm và bổn phận của mình bằng những việc làm thiết thực nhất: “Trong lúc chống nạn đói kém, đồng bào ta đã từng mỗi tuần nhịn ăn một bữa để giúp các đồng bào bị đói. Bây giờ chống nạn ngoại xâm, tôi chắc đồng bào ta sẽ vui lòng vài ba tháng nhịn ăn một bữa để giúp đỡ chiến sĩ bị thương”. Chính Người đã tiên phong gương mẫu thực hiện lời kêu gọi đó: “Tôi xin xung phong gửi 1 chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu tôi, 1 tháng lương của tôi, 1 bữa ăn của tôi, và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127.00đ).
Đặc biệt, nhân ngày 27 tháng 7 hàng năm, Bác trích một tháng lương Chủ tịch nước của mình tặng các đồng chí thương binh. Những tặng phẩm của đồng bào trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài kính tặng Bác, Bác tặng lại các đồng chí thương binh.
Tháng 9/1951, Bác gửi thư cho anh em thương binh Trại dệt chiếu Tuyên Quang. Như tình cảm của người cha dành cho con, ân cần, tỉ mỉ, Bác hỏi: Học dệt chiếu cần bao nhiêu ngày, tháng? Trung bình dệt một chiếu thường cần mấy giờ và bao nhiêu vốn? Bán một chiếu được bao nhiêu lời? Với nghề dệt chiếu, có thể đủ ăn, đủ mặc không?
Câu chuyện chiếc điều hoà nhiệt độ trong phòng Bác là một trong nhiều câu chuyện thể hiện tấm lòng nhân ái bao la của một con người mà cả cuộc đời “Nâng niu tất cả, chỉ quên mình” của Người.
Một lần Bác đến thăm trại điều dưỡng thương binh ở Hà Nội. Hôm đó, trời nóng, khi đến thăm anh chị em thương binh nặng phải nằm bất động, Bác vừa hỏi chuyện vừa cầm chiếc quạt giấy của mình quạt cho anh em. Trên đường về, Bác rất xúc động.
Chiếc điều hoà nhiệt độ là quà của các đồng chí ở Bộ Ngoại giao đang công tác ở nước ngoài gửi biếu Bác. Lúc đó, Bác đang ở trong ngôi nhà của người thợ điện trong Phủ Toàn quyền. Ngôi nhà có trần thấp, buổi trưa và buổi chiều rất nóng (lúc này Bác chưa chuyển sang Nhà sàn).
Khi các đồng chí phục vụ lắp chiếc điều hoà nhiệt độ vào phòng của Bác, Bác không dùng, mà nói với đồng chí Vũ Kỳ:
“Chiếc máy điều hoà nhiệt độ tốt đấy, các chú có thể đem đến cho quân y viện hoặc trại điều dưỡng thương binh. Hôm trước Bác đến thăm thấy các chú ấy ở nóng lắm. Còn Bác thì chưa cần, Bác ở thế này là được rồi”.
Ngay chiều hôm đó, chiếc máy điều hoà nhiệt độ trong phòng của Bác được chuyển đi.
Những món quà của Bác giản dị nhưng vô cùng quý giá vì đó chính là sự quan tâm chăm sóc, là tình cảm của Người dành cho thương bệnh binh. Những món quà đó là nguồn cổ vũ, động viên tinh thần to lớn đối với thương bệnh binh, làm ấm lòng người chiến sĩ. Đáp lại tình cảm ấy, bằng tinh thần và nghị lực của anh bộ đội Cụ Hồ, nhiều thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ đã có nhiều cố gắng vươn lên, tự lực cánh sinh trong lao động sản xuất, học tập và trong cuộc sống. Họ không những đã tạo ra công ăn việc làm cho mình và gia đình mình, mà còn tích cực giúp đỡ đồng đội và con em của họ, tạo dựng nên một cuộc sống có ích hơn, tươi đẹp hơn. Họ đã làm đúng theo lời Bác dạy: Thương binh tàn nhưng không phế.
Trước lúc đi xa, Bác đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta Bản Di chúc lịch sử, trong đó có phần viết về chính sách xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và những người đã kinh qua chiến đấu.
Bác viết: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.
Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho Nhân dân ta.
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.
Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang Nhân dân và thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra dũng cảm. Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ngày nay được sống trong cảnh đất nước thanh bình, chúng ta càng nhớ tới công lao và sự hy sinh to lớn của các thương binh và liệt sĩ. Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách ưu tiên đối với thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Đồng bào ta trên khắp mọi miền của Tổ quốc cũng đã làm nhiều công việc để đền ơn đáp nghĩa, như: Tặng quà cho các gia đình có công với cách mạng, gia đình chính sách, xây nhà tình nghĩa, lập Quỹ đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng các mẹ Việt Nam anh hùng, ủng hộ và giúp đỡ các nạn nhân nhiễm chất độc màu da cam, giúp đỡ thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ, tìm mộ liệt sĩ, v.v..
Việc chăm sóc sức khoẻ, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất, giảm bớt một phần khó khăn trong cuộc sống cho thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ là tình cảm, trách nhiệm và bổn phận của toàn xã hội. Xã hội ta sẽ ngày càng tốt đẹp hơn từ những việc làm đầy tình nghĩa đó. Phong trào đền ơn đáp nghĩa đã, đang và sẽ được nhân dân ta nhân lên và phát huy ngày càng rộng rãi.
Nguồn: Trang tin điện tử Bảo tàng Hồ Chí Minh
 
DI TÍCH LỊCH SỬ TẠI THĂNG BÌNH
 
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 06/2017, chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn đoàn viên thanh niên, các tổ chức Đoàn về Di tích lịch sử “Địa điểm cơ sở cách mạng nhà ông Phan Tựu”  .
 
Địa điểm di tích nằm tại Tổ 11, thôn 3, xã Bình Dương, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
Nhà ông Phan Tựu là một trong những nơi được lãnh đạo huyện Thăng Bình và xã Bình Dương chọn làm cơ sở bí mật để lãnh đạo tỉnh, huyện và xã trú ẩn, tổ chức và lãnh đạo phong trào cách mạng trong những năm 1954 – 1970. Nhà ông Phan Tựu tại thôn 3, xã Bình Dương, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, được xây dựng từ năm 1940, nguyên là nhà rường gỗ 5 gian 2 chái lợp ngói theo kiến trúc nhà cổ Việt Nam trong khu vườn rất rộng và đẹp. Tháng 8 năm 1954, tại ngôi nhà này các đồng chí Phan Thảng – Chủ tịch hành chính kháng chiến của xã, Dương Tuận, Phan Dương, Phan Đinh, Nguyễn Nghệ, Phan Côn, Phan Bình …tụ họp để bàn việc tập kết các cán bộ đảng viên xã nhà và những đồng chí này là những người được Đảng cử đi miền Bắc tập kết bằng đường biển vào Quy Nhơn để thi hành hiệp định Giơnevơ. Do có chỉ điểm nên bọn Ngụy quyền đã cho cả trung đội lính tiến hành vây ráp cán bộ của ta và đã nổ súng truy tìm, nhưng được sự đấu tranh và giải cứu kịp thời của bà con hàng xóm, nên nhiều người lẫn trốn trên xối nhà và sau đó trốn thoát ra biển vào Quy Nhơn để tập kết, không ai bị địch bắt. 
Tại đây, vào năm 1964 đã diễn ra các cuộc họp bàn và phát lệnh khởi nghĩa giải phóng vùng Đông lần thứ nhất vào ngày 05.5.1964 và khởi nghĩa giải phóng vùng Đông lần thứ hai ngày 05.9.1964.
Từ năm 1964 đến cuối năm 1970, nơi đây được chọn làm trung tâm chỉ huy, hội họp của tỉnh Quảng Nam, huyện Thăng Bình, thị xã Hội An, các đơn vị chủ lực của tỉnh, bộ đội địa phương và là nơi đặt trạm phẫu địa phương của Ban Dân y Khu V…
Từ cuối năm 1965 đến năm 1967, cơ quan Huyện ủy Thăng Bình đóng tại nhà ông Phan Tựu để chỉ đạo phong trào cách mạng vùng Đông. Đặc biệt, tại đây vào tháng 7 năm 1967 Hội nghị Huyện ủy Thăng Bình được tổ chức với hơn 60 đại biểu tham dự. Hội nghị đã quyết định nhiệm vụ “….Phải ra sức tăng cường xây dựng thực lực đấu tranh, giữ vững vùng giải phóng, chuẩn bị mọi mặt để phối hợp với chiến trường đẩy mạnh hoạt động giành thắng lợi to lớn hơn nữa”. Hội nghị đã bầu bổ sung Ban Chấp hành Đảng bộ huyện….Nhà ông Phan Tựu là một trong những cơ sở cách mạng tiêu biểu của huyện góp phần vào sự thành công của công cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, giải phóng dân tộc. Nơi đây ghi nhiều dấu ấn gắn với phong trào cách mạng của xã trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là cơ sở hoạt động mật, trụ sở chỉ huy, nơi hội họp của Đảng và cách mạng, đặc biệt là nơi Huyện ủy tổ chức Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ lần thứ 7. 
         Nhân dân Thăng Bình tự hào có những đảng viên, cán bộ tiêu biểu đã hy sinh oanh liệt như Lê Quang Cảnh, Trương Thị Xáng, Lâm Hoàng Diệu, Nguyễn Suyền, Nguyễn Tùng, Trương Thúc Thành, ... và cũng đầy lòng biết ơn những gia đình có công với cách mạng như bà Hưỡn, ông Phan Tựu, bà Lức, Bà Chương.
         Năm 1975, kháng chiến thắng lợi, đất nước hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối, trong sự đóng góp chung, không thể không kể đến những đóng góp của gia đình ông Phan Tựu.
         Di tích lịch sử “Địa điểm cơ sở cách mạng nhà ông Phan Tựu” được UBND tỉnh Quảng Nam công nhận là di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 954/QĐ-UBND, ngày 27.3.2013.
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Thăng Bình
 
THEO DÒNG LỊCH SỬ
 
Những ngày đáng nhớ trong tháng 7:
 
- 02/7/1976: Kỷ niệm Ngày nước ta đổi quốc hiệu từ Việt Nam Dân chủ cộng hòa thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- 11/7: Kỷ niệm ngày Dân số thế giới.
- 15/7/1950: Kỷ niệm Ngày truyền thống thanh niên xung phong.
- 17/7/1966: Ngày Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
- 20/7/1954: Ngày ký hiệp định Giơnevơ.
- 27/7/1947: Kỷ niệm Ngày thương binh, liệt sỹ Việt Nam.
- 28/7/1929: Kỷ niệm Ngày thành lập công đoàn Việt Nam.
 
02/7/1976: Ngày nước ta đổi quốc hiệu từ Việt Nam Dân chủ cộng hòa thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
 
Với thắng lợi rực rỡ của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước, kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã được triệu tập vào tháng 6/1976.
Thủ đô Hà Nội, Hội trường Ba đình cờ hoa rực rỡ, tưng bừng chào đón những vị đại biểu của Nhân dân trong cả nước. 492 đại biểu của 38 tỉnh và thành phố trên khắp mọi miền của đất nước về dự họp đã thật sự trở thành hình ảnh tiêu biểu, linh động của toàn dân Việt Nam, sum họp một nhà.
Trong buổi sáng ngày 25/6, Quốc hội đã nghe đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, đọc Báo cáo chính trị quan trọng “Toàn dân đoàn kết xây dựng Tổ quốc Việt Nam thống nhất xã hội chủ nghĩa”. Thay mặt Trung ương Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã trình bày trước cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất về tình hình và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ của Nhà nước Việt Nam thống nhất và những nguyên tắc cơ bản của chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn mới, phương châm và phương thức công tác của Nhà nước nhằm thực hiện nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý; phương hướng và cách tiến hành xây dựng Hiến pháp mới của nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta trong khi chưa có Hiến pháp mới.
Trong những phiên họp cuối cùng, Quốc hội đã thông qua những nghị quyết và văn kiện hết sức quan trọng của nước Việt Nam Độc lập, Thống nhất và Xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, Nghị quyết về tên nước, quốc kỳ, quốc huy, thủ đô, quốc ca với toàn văn như sau:
Quốc hội nước Cộng hòa Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam, sau khi thảo luận đề nghị của Đoàn Chủ tịch kỳ họp Quốc hội, quyết nghị:
1. Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa lấy tên là nước Cộng hòa xã chủ nghĩa Việt Nam.
2. Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.
3. Quốc huy nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng cưa và dòng chữ “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
4. Thủ đô nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội.
5. Quốc ca nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là bài “Tiến quân ca”
Với niềm phấn khởi và tin tưởng dạt dào, toàn thể Quốc hội đã hoàn toàn nhất trí thông qua Nghị quyết, hoàn toàn nhất trí đặt tên nước ta là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tiếp đó Quốc hội đã thông qua các Nghị quyết quan trọng khác.
Ngày 02/7/1976, nước Việt Nam mang tên mới: Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày bắt đầu chương mới huy hoàng của lịch sử Việt Nam. Từ Văn Lang, Âu Lạc, Vạn xuân và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dân tộc ta đã trải qua những chặng đường lịch sử đầy chông gai nhưng cũng đầy khí phách anh hùng, chiến thắng vẻ vang.
Chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm tròn sứ mệnh lịch sử quang vinh.
Ngày nay nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời với nhiệm vụ đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta, dân tộc ta có đầy đủ mọi khả năng và nghị lực để thực hiện nhiệm vụ vĩ đại đó, giành thắng lợi hoàn toàn cho chủ nghĩa xã hội, như tuyến bố của Quốc hội đã khẳng định.
 
15/7/1950: Ngày truyền thống thanh niên xung phong
 
“Thanh niên xung phong là một biểu tượng sáng ngời của thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng mở đầu cuộc cách mạng tháng tám vĩ đại năm 1945.
Trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, lực lượng thanh niên xung phong nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, đã góp phần cống hiến quý báu vào thắng lợi huy hoàng, hoàn thành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc, thực hiện ước mơ của bao thế hệ người Việt Nam”.
(Phạm Văn Đồng – trích trong tập sách “Thanh niên xung phong- những trang oanh liệt”-NXB, Thanh niên, 1996)
Ngày 15/7/1950, thực hiện chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Đoàn thanh vận Trung ương quyết định thành lập đội thanh niên xung phong công tác Trung ương đầu tiên phục vụ chiến dịch Biên Giới. Ban chỉ huy lâm thời của đội gồm 5 đồng chí, do đồng chí Vương Bích Vượng, uỷ viên ban chấp hành Đoàn thanh niên cứu quốc là đội trưởng và bí thư chi bộ. Đội có 225 đội viên đầu tiên, được tổ chức thành 3 liên đội.
Qua từng thời kỳ, để đáp ứng nhu cầu thực tế của tình hình đất nước, lực lượng thanh niên xung phong đã nhiều lần đổi tên:
Đội thanh niên xung phong công tác Trung ương (15/7/1950)
Đội thanh niên xung phong (26/3/1953)
Đoàn thanh niên xung phong Trung ương (12/1963)
Đội thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước (21/6/1965)
Lực lượng thanh niên xung phong giải phóng miền Nam (20/4/1964)
Ban thanh niên xung phong – Lao động trẻ (3/1986)
“Trong sự nghiệp chống nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lực lượng thanh niên xung phong đã phát huy sức mạnh vô song, với những hoài bão và bản lĩnh của tuổi trẻ, đi đầu trong việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội như: tham gia vào các chương trình, dự án: phủ xanh đất trồng trọt, nước sạch cho nông thôn, sử dụng mắt nước, bãi bồi ven biển, ánh sáng văn hoá, dạy nghề, giới thiệu việc làm…. với ý chí và nghị lực, thực hiện lời dạy của Bác Hồ: không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắc làm nên”. (Phạm Văn Đồng)
Thể theo nguyện vọng của đông đảo cán bộ, đội viên thanh niên xung phong các thế hệ, theo đề nghị của Uỷ Ban Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, ngày 30/6/1995, thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 382/TTG quy định lấy ngày 15/5 hàng năm làm ngày truyền thống của lực lượng thanh niên xung phong Việt Nam.
Nhân dịp này, ban chấp hành Trung ương Đảng đã tặng lực lượng thanh niên xung phong bức trướng mang dòng chữ: “Thanh niên xung phong - Chiến đấu dũng cảm – Lao động sáng tạo - Lập công xuất sắc”.
Nguồn lichsuvietnam.vn
 
      
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH MỚI
 
Trong tài liệu sinh hoạt chi đoàn số 06/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên, các tổ chức Đoàn thông tin, cụ thể về tăng số tiền đóng BHXH bắt buộc từ 01/7/2017 với nhiều đối tượng, cụ thể như sau:
Từ ngày 01/7/2017, tiền lương cơ sở sẽ tăng từ 1.210.000 đồng/tháng lên thành 1.300.000 đồng/tháng (Nghị định 47/2017/NĐ-CP) nên tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc của nhiều đối tượng cũng được điều chỉnh tăng theo quy định này.
Như vậy, số tiền đóng BHXH bắt buộc sẽ tăng từ ngày 01/7/2017 đối với các đối tượng sau đây:
Đối tượng Tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc từ ngày 01/7/2017 Số tiền đóng BHXH bắt buộc từ ngày 01/7/2017
Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn 1.300.000 đồng/tháng 1.300.000 x 8% = 104.000 đồng/tháng
Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định Tiền lương theo ngạch, bậc, cấp bậc quân hàm và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có)
(Nếu tiền lương từ 26.000.000 đồng/tháng trở lên thì tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc sẽ tính là 26.000.000 đồng/tháng).
Tiền lương (lương và phụ cấp tính theo mức lương cơ sở mới: 1.300.000 đồng/tháng) x 8%
 
 
 
Hiện nay, người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định đã có mức lương tính đóng BHXH bắt buộc từ 26.000.000 đồng/tháng trở lên thì đến ngày 01/7/2017 mức lương tính đóng BHXH bắt buộc được giữ nguyên, số tiền đóng BHXH bắt buộc hằng tháng cũng được giữ nguyên như hiện hành.
Nội dung nêu trên, được căn cứ vào Khoản 1 Điều 85 và Khoản 1, Khoản 3 Điều 89 Luật bảo hiểm xã hội 2014.
Nguồn thư viện pháp luật
 
 
SỔ TAY NGHIỆP VỤ
 

Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 06/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên, tổ chức Đoàn: {Infographic} Nói không với đuối nước

 
Nguồn: doanthanhnien.vn
THANH NIÊN VÀ NGHỀ NGHIỆP
 
6 hình thức kinh doanh không cần vốn
Nhiều người có ước mơ kinh doanh riêng nhưng không thực hiện được vì nhiều trở ngại, như chưa có đủ động lực và thời gian để tìm hiểu về lĩnh vực mình muốn hoạt động, chưa có một ý tưởng chắc chắn và rõ ràng để bắt đầu… Nhưng có thể nói, tiền chính là một trong những trở ngại lớn nhất cản bước một người trở thành doanh nhân.
Trên thực tế, có rất nhiều hình thức khả thi để huy động vốn, như vay tiền, xin tài trợ, crowfunding (huy động vốn từ cộng đồng)… Vì thế, tiền không phải là một “lời biện hộ” hợp lý cho việc không thể trở thành doanh nhân. Bởi thật ra bạn không cần phải có quá nhiều tiền để bắt đầu kinh doanh. Thậm chí, bạn hoàn toàn có thể bắt đầu với số vốn bằng 0.
Theo Jayson Demers – nhà sáng lập, CEO Công ty cung cấp các dịch vụ tối ưu hóa công cụ tìm kiếm AudienceBloom, dưới đây là một số hình thức kinh doanh không cần vốn mà những người nuôi “mộng doanh nhân” có thể tham khảo:
1. Cung cấp sản phẩm từ sự sáng tạo cá nhân
Các mặt hàng thủ công hay các sản phẩm nghệ thuật đều có thể là một mặt hàng bán chạy. Ví dụ, nếu là một họa sĩ, bạn có thể bán các tác phẩm của mình. Như vậy, khoản vốn phải bỏ ra ban đầu thực ra chỉ là thời gian và những đứa con tinh thần của bạn.
Các nền tảng giao dịch điện tử chính là những địa chỉ lý tưởng cho các nhà sáng tạo và giúp họ kiếm được lợi nhuận từ công việc chuyên môn của mình.
2. Cung cấp dịch vụ tại nhà
Nhiều loại dịch vụ không đòi hỏi bạn phải bỏ ra một số vốn ban đầu vì chúng là những sản phẩm vô hình. Và nếu làm việc tại nhà riêng của khách hàng, bạn cũng không cần phải đầu tư cho một trụ sở văn phòng. Chẳng hạn, bạn có thể cung cấp dịch vụ trông trẻ, dịch vụ chăm sóc thú cưng, thiết kế cảnh quan…
3. Cung cấp các dịch vụ sửa chữa hoặc tận dụng kỹ năng có sẵn
Nếu sở hữu một kỹ năng cụ thể, hãy tận dụng nó để mang lại nguồn thu chính cho hoạt động kinh doanh của mình. Chẳng hạn, nếu bạn là người thông thạo các hoạt động sửa chữa nhà cửa, hãy cung cấp dịch vụ cho khách hàng – những người không biết gì về lĩnh vực này.
Cũng giống như các loại dịch vụ tại nhà, kiểu kinh doanh này không đòi hỏi bạn phải có một cơ sở để đặt văn phòng và không yêu cầu bạn phải đầu tư tiền vốn trước khi bắt đầu, ngoại trừ một số công cụ để làm việc nhưng bạn sẽ nhanh chóng lấy lại chúng trong doanh thu.
4. Tư vấn
Nhiều người bắt đầu nghĩ về việc trở thành doanh nhân chỉ sau khi làm công việc chuyên môn được vài năm. Hãy suy nghĩ về lĩnh vực mình đang hoạt động và tự hỏi xem bạn đã học hỏi được gì kể từ khi bắt đầu làm việc. Những chủ doanh nghiệp khởi nghiệp hoặc các công ty mới bắt đầu hoạt động có thể sẽ rất hứng thú trả tiền cho những kinh nghiệm mà bạn đang sở hữu.
Tư vấn là loại hình dịch vụ mà bạn chỉ cần tốn thời gian để “sản xuất” nhưng lại là một cơ hội nghề nghiệp đáng giá.
5. Mua đi bán lại
Ý tưởng về kiểu kinh doanh này rất đơn giản: bạn có được sản phẩm và bán chúng cho người khác. Để có được sản phẩm, bạn có thể tận dụng mô hình d-ropshipping (nghĩa là “bỏ qua khâu vận chuyển”, cho phép bạn mua sản phẩm từ nhà cung cấp và chuyển chúng trực tiếp đến khách hàng. Thay vì mua một số lượng lớn hàng tồn kho, bạn chỉ cần hợp tác với một nhà cung cấp d-ropshipping và chào bán hàng hóa của họ) hoặc mua hàng từ những nhà bán buôn.
Mô hình d-ropshipping sẽ mang đến lợi nhuận thấp, nhưng bạn gần như không cần tiền vốn ban đầu. Với kiểu hợp tác với các nhà bán buôn, bạn cần phải có trước một số vốn kha khá, tuy nhiên bạn có thể kiếm được nhiều lợi nhuận hơn.
6. Lập nên “vi doanh nghiệp” (micro-entrepreneur)
Bạn cũng có thể khởi sự kinh doanh bằng cách tận dụng những cơ hội từ kinh tế chia sẻ, chẳng hạn như trở thành tài xế của một dịch vụ gọi xe hoặc cho thuê nhà thông qua các nền tảng được tin tưởng như Airbnb…
Sau khi bắt đầu kinh doanh và có được lợi nhuận, vấn đề vốn liếng đối với bạn sẽ không còn quá quan trọng nữa. Lúc này, bạn có thể lựa chọn sử dụng vốn đã kiếm được để “tái đầu tư” cho lĩnh vực hiện tại hoặc bắt đầu một lĩnh vực khác thú vị hơn, và có thể có quy mô lớn hơn.
Nguồn: thanhgiong.vn
 
THANH NIÊN VÀ PHÁP LUẬT
 
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 06/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên nội dung Nghị định số 56/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều về Luật trẻ em, nội dung như sau:
Ngày 09/5/2017 Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều về Luật trẻ em.
Theo đó, Nghị định quy định về các nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và chính sách hỗ trợ; hỗ trợ, can thiệp đối với trường hợp trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; trách nhiệm bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng; chăm sóc thay thế cho trẻ em; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc bảo đảm để trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Đối tượng áp dụng là các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân quy định tại Điều 3 Luật trẻ em.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2017.  Nghị định số 71/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em hết hiệu lực kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành.
Chi tiết nội dung quy định tại Nghị định số 56/NĐ-CP ngày 09/5/2017 (http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanbanclass_id=1&_page=1&mode=detail&document_id=189758)./.
Nguồn: vanban.chinhphu.vn
 
BÀI HÁT THANH NIÊN
 
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 06 tháng 7/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên lời bài hát “Thanh niên xung phong
Thanh niên xung phong
Sáng tác: Phan Huỳnh Điểu                   
 
Là thanh niên xung phong, chúng ta hát vang bước lên đường
Cùng đi xây tương lai như muôn lớp sóng trào đại dương
Vì yêu quê hương mà đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên
Lời Bác còn âm vang giục ta đường xa mau tiến tới.
Dù gặp đồi núi cao, dù vượt dòng nước sâu.
Dù nhọc nhằn đến đâu là thanh niên xung phong
ta hứa quyết tâm đi đầu.
Từ nơi xưa hoang vu chúng ta biết nên những cánh đồng.
Mùa lúa chín bát ngát dòng kinh uốn quanh từ bờ sông.
Đường đi Tây Ninh, đường qua Đồng Nai, Sông Bé, Ai ghé đến
Tha La đều thấy mùa lên tươi xanh mà trong lòng vui như chấp cánh.
Chiều chiều hòa tiếng ca, mừng một ngày đã qua
Một ngày mà chúng ta đổ mồ hôi góp sức
cho quê hương nhà Một mùa xuân rộn ràng đang mong.
Đoàn thanh niên xung phong.
Thanh niên xung phong.
 
ĐỊNH HƯỚNG SINH HOẠT CHI ĐOÀN
 
1. Tuyên truyền triển khai thực hiện Thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trong cán bộ, đoàn viên, thanh thiếu nhi giai đoạn 2016 – 2021.
2. Tập trung tuyên truyền và tổ chức các hoạt động có ý nghĩa kỷ niệm 102 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (01/7/1915- 01/7/2017), kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh Liệt sỹ (27/7/1947- 27/7/2017); kỷ niệm 88 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929- 28/7/2017)….
3. Tiếp tục đẩy mạnh việc tổ chức, tuyên truyền các hoạt động thiết thực cho cán bộ Đoàn, đoàn viên, hội viên, thanh niên trong chiến dịch Thanh niên tình nguyện hè năm 2017
4. Tiếp tục tuyên truyền Nghị quyết Đại hội Đoàn các cấp, các cuộc thi, hội thi, diễn đàn…. chào mừng Đại hội Đoàn tỉnh Quảng Nam lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2017 – 2022.
5. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền những nội dung cơ bản, những điểm mới và các giải pháp được nêu trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã được thông qua; nội dung cụ thể tinh thần của Nghị quyết vào chương trình hành động của Đoàn thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Thăng Bình lần thứ XX và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
 
TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN
Số 07 -Tháng 8/2017
 
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

 
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, TẤM GƯƠNG SÁNG VỀ NÓI ĐI ĐÔI VỚI LÀM
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng “nói đi đôi với làm”, cho mọi thế hệ người Việt Nam học tập và noi theo. Ở Hồ Chí Minh lời nói đi đôi với hành động, lý luận đi đôi với thực tiễn, nói để mà làm, làm phải đúng như điều đã nghĩ, đã nói. Hơn nữa, Người nói ít nhưng làm nhiều, có những vấn đề đạo đức Người không nói mà chỉ làm. Thống nhất giữa lời nói và việc làm là nguyên tắc đạo đức của Hồ Chí Minh, là sự thể hiện tấm gương thực hành đạo đức cách mạng của bản thân.
Người thường nhắc nhở: Nói cái gì phải cho dân tin - nói và làm phải nhất quán. Với quan niệm đó, trong suốt cuộc đời mình, Người đã thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ nói đi đôi với làm. Sức thuyết phục mạnh mẽ trong tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là ở chỗ, nói luôn đi đôi với làm, dù việc lớn hay việc nhỏ, tự mình phải làm gương trước. Tấm gương nói đi đôi với làm của Hồ Chí Minh, bắt nguồn từ quan niệm của Người, từ lòng dạ trong sáng, chính tâm, thật sự nêu gương của Người. Phẩm chất nói đi đôi với làm Người đã dạy chúng ta về lẽ sống “thật”, đối lập với giả, với dối.
Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh có biết bao câu chuyện cảm động về việc nêu gương, nói đi đôi với làm, tự mình làm trước.
Xuất phát từ truyền thống yêu nước của quê hương, gia đình, chứng kiến cuộc sống khổ cực của Nhân dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp, người thanh niên Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Trước khi đi, anh tâm sự với người bạn của mình: “Tôi muốn ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm ăn như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm… Anh muốn đi với tôi không? Khi người bạn hỏi lấy tiền đâu mà đi, anh Thành vừa nói, vừa giơ hai bàn tay: “Đây, tiền đây… Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”(1)
Câu nói là sự thể hiện quyết tâm và cũng là lời hứa của Người trước vận mệnh dân tộc mình. Với hai bàn tay trắng và lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, ngày 05/6/1911, chàng trai xứ Nghệ Nguyễn Tất Thành 21 tuổi đã vượt đại dương với nghề phụ bếp trên tàu để đi khắp năm châu bốn biển, tự kiếm sống, học tập với hoài bão tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Thực tiễn đã chứng minh Người đã làm đúng như những gì Người đã nói. Sau 30 năm bôn ba đặt chân đến gần 30 nước, ngày 28/01/1941, Người trở về Tổ quốc trực tiếp cùng Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Khi nước nhà mới giành độc lập 1945, cách mạng Việt Nam đứng trước muôn vàn khó khăn “thù trong, giặc ngoài”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã đưa ra những chủ trương hết sức đúng đắn, kịp thời đẩy lùi những khó khăn. Để giải quyết nạn đói trên miền Bắc, Người đề nghị toàn dân tiết kiệm gạo để giúp đồng bào bị đói và Người mẫu mực thực hiện trước: “Lúc chúng ta mang bát cơm lên mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ chúng ta không khỏi động lòng, vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”(2)
Nói đi đôi với làm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện rất nghiêm túc, mặc dù lúc này sức khỏe Người giảm sút do trải qua trận ốm nặng. Các đồng chí từng phục vụ bên Người kể lại rằng, một lần tướng Tiêu Văn của Quân đội Tưởng Giới Thạch mời Người dự chiêu đãi. Hôm đó, đúng vào bữa cơ quan nhịn ăn để góp gạo cứu đói, mặc dù các đồng chí phục vụ đã báo cáo phần gạo của Người đã cho vào hũ gạo cứu đói rồi, nhưng Người vẫn quyết định “nhịn ăn một bữa” vào ngày hôm sau.
Năm 1946, để tăng cường sức khỏe cho Nhân dân, Bác kêu gọi toàn dân tập thể dục. Bản thân Người là tấm gương “Tự tôi ngày nào cũng tập”(3)
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy đảng viên, Nhân dân phải thực hành tiết kiệm: tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền bạc, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, không bừa bãi, phô trương hình thức. Bản thân Người đã luôn thực hiện đời sống thanh bạch từ ăn, ở đến các phương tiện sử dụng phục vụ công việc hàng ngày. Đồ dùng cá nhân của Người cũng rất giản dị và tiết kiệm.
15 năm cuối đời, Bác sống ở Phủ Chủ tịch, khi đó kinh tế còn khó khăn, đời sống Nhân dân còn thiếu thốn. Bác yêu cầu: Chiều thứ bảy hàng tuần cho Bác ăn cháo để bớt phần gạo cho dân và đề nghị với nhà bếp, cán bộ, Nhân dân ăn cơm độn ngô, khoai, sắn bao nhiêu phần trăm thì độn cho Bác bấy nhiêu phần trăm. Bữa ăn của Bác thanh đạm như bữa ăn của bao gia đình người dân: bát canh, quả cà, vài lát thịt kho. Khi ăn cơm, Bác không bao giờ để rơi một hạt cơm, vì Người biết một hạt cơm là một giọt mồ hôi của người dân. Cố thủ tướng Phạm văn Đồng nói: ăn cơm với Cụ hàng trăm lần, lần nào cũng thấy Cụ tém vén không để rơi một hạt nào. Bởi Cụ quý và tiết kiệm sức lao động của người làm ra lúa gạo.
Về thăm các địa phương, Người thường không báo trước. Có lần Bác đến thăm công trình thủy lợi Bắc- Hưng- Hải, buổi trưa Tỉnh ủy có mời Bác ăn cơm trưa. Ít ngày sau, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hoàng Anh phụ trách công tác tài chính đến báo cáo công việc với Bác. Sau khi báo cáo xong, đồng chí có nói chuyện riêng với đồng chí Vũ Kỳ - Thư ký giúp việc cho Bác, đồng chí đã hỏi: Có phải hôm Bác về thăm tỉnh ấy, có thịt bò chiêu đãi? Nghe được câu chuyện giữa đồng chí Hoàng Anh với đồng chí Thư ký. Bác nói với đồng chí Hoàng Anh: Thế thì chú quyết toán cho họ. Vài ngày sau đó khi đi công tác, Bác dặn đồng chí giúp việc chuẩn bị cơm nắm muối vừng mang theo để tránh đón rước linh đình, phiền hà, tốn kém thời giờ và tiền bạc của Nhân dân. Tránh tình trạng như hôm ta về thăm tỉnh, họ quyết toán chiêu đãi Bác cả con bò, điều người này, người khác sang chuẩn bị cả buổi. Thế là tự Bác bao che cho chuyện xôi thịt - mà xôi thịt đấy là sự đóng góp của dân mà có.
Về nơi ở, sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, từ chiến khu Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội, Người không ở căn nhà to lớn của viên toàn quyền Đông Dương, mà chọn ở ngôi nhà của người công nhân thợ điện. Ngôi nhà mà Đảng, Chính phủ định mời Bác ở, Bác nói dành làm nơi đón, tiếp các đoàn khách sang thăm Việt Nam vì nước ta còn nghèo, một mình Bác ở nhà to rất lãng phí. Mùa hè, Miền Bắc oi bức, nhưng Bác chỉ dùng quạt lá cọ để “dành điện phục vụ cho sản xuất, phục vụ sinh hoạt cho Nhân dân”. Thương Bác, các đồng chí cán bộ ngoại giao gửi biếu Bác chiếc điều hòa nhiệt độ, nhưng Người không dùng mà đề nghị chuyển chiếc điều hòa ấy cho các đồng chí thương, bệnh binh đang điều trị tại trại điều dưỡng hoặc quân y viện, là những người, những nơi cần hơn.
Về mặc, Người ăn mặc cũng rất giản dị. Mùa đông, Bác Hồ có một cái áo bông của đồng bào biếu Bác, vì dùng nhiều năm nên mền bông bẹp xuống, không còn ấm nữa, nhưng không ai dám nghĩ đến việc xin Bác bỏ mền bông đi, chỉ nghĩ đến việc thay vỏ ngoài. Vì dùng mãi vỏ áo đã đứt chỉ ở khuỷu tay và ở cổ, Bác bảo mang áo lại. Nó rách ở vai thì Bác bảo vá vai, đến khi nó rách hai lần, đồng chí phục vụ xin Bác cho thay vỏ ngoài. Bác bảo: “Này, chú ạ, Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nước mặc áo vá vai thế này là cái phúc lớn của dân đấy. Đừng bỏ cái phúc ấy đi”(4)
Xúc động hơn cả là bản Di chúc lịch sử Bác để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc đi xa cũng được viết ở mặt sau của một tờ bản tin cũ để tiết kiệm giấy.
Không chỉ tiết kiệm trong lối sống của bản thân, ngay cả trong việc sử dụng đội ngũ cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng quan tâm làm sao tiết kiệm sức người, tiết kiệm thời gian. Những năm tháng sống trên chiến khu Việt Bắc, tổ công tác đi theo Bác chỉ có ít người nhưng kiêm mọi công việc. Cách mạng Tháng Tám thành công, trở về Thủ đô nhưng các đồng chí phục vụ Bác ở Phủ Chủ tịch cũng rất ít. Những khi đi công tác xa, Bác thường tạo điều kiện để các đồng chí phục vụ được tranh thủ về thăm gia đình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên mọi người sống trong sạch, không ham tiền tài, danh vọng, không cậy quyền thế mà đục khoét của dân. Cuộc sống giản dị, trong sạch của Người thật sự là tấm gương sáng để cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền phải tự soi lại mình.
Nhân dân tỉnh Thái Bình gửi biếu Bác 2 chai nước mắm, Bác san sẻ quà đó với người khác cùng hưởng; hay khi nhận được món quà là hộp mật ong khô rất quý nhưng Người kiên quyết không giữ lại dùng riêng mà yêu cầu đồng chí cấp dưỡng đem nấu chè cho mọi người cùng thưởng thức. Đặc biệt, trong một lần, Người sang thăm Liên Xô, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô gửi tới Bác 4.000 rúp, đồng chí thư ký của Bác 1.000 rúp. Nhưng trước khi rời Mat-xcơ-va, Người đã gửi lại Ủy ban Trung ương Đảng Liên Xô 5.000 rúp đó.
Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải tin yêu, quý trọng con người, phải kính già yêu trẻ và Người là tấm gương mẫu mực về điều đó. Trong những năm tháng giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, cả nước sống trong không khí khẩn trương, sẵn sàng chiến đấu. Giữa trời hè nóng nực, khi xe đưa Bác đi công tác về qua Quảng trường Ba Đình, nhìn lên nóc nhà hội trường Ba Đình, thấy các đồng chí bộ đội phòng không đang trực chiến trên mâm pháo dưới cái nắng hầm hập, Bác rất thương anh em. Ngay sau đó, Người quyết định dành toàn bộ số tiền nhuận bút của mình bấy lâu trong sổ tiết kiệm gửi Bộ Quốc phòng chuyển tặng các chiên sỹ phòng không để mua nước giải khát...
Thời gian trôi qua, những câu chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về “nói đi đôi với làm” vẫn còn vẹn nguyên. Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là tấm gương sáng chói cho mọi thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là thanh niên học tập và noi theo.
(1) Trần Dân Tiên: Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1970, tr.10.(2) Hồ Chí Minh: toàn tập, Sdd, tập 4, tr.33.(3) Hồ Chí Minh: toàn tập, Sdd, tập 4, tr.241.(4) Trần Viết Hoàn: Đạo đức Bác Hồ tấm gương soi cho muôn đời. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.272.
 
Nguyễn Thị Kim Thanh
Theo Tạp chí Xây dựng Đảng
Nguồn: baotanghochiminh.vn
 
 
DI TÍCH LỊCH SỬ TẠI THĂNG BÌNH
 
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 07 Tháng 8/2017, chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn đoàn viên thanh niên, các tổ chức Đoàn về Di tích lịch sử "Căn cứ Lõm Bàu Bính"
Tên gọi Căn cứ lõm ra đời năm 1971 do Đảng bộ, nhân dân xã Bình Dương, Huyện uỷ huyện Thăng Bình, Tỉnh uỷ tỉnh Quảng Nam và một số đơn vị chiến đấu ở Thăng Bình năm 1969 – 1972 đặt tên. Còn tên gọi Bàu Bính có từ bao đời nay không rõ do ai đặt tên. Theo truyền miệng dân gian thì ở địa bàn xã Bình Dương có rất nhiều tên gọi về Bàu: Bàu Bính, Bầu Dừa, Bàu Bàng, Bàu Hoành, Bàu Cầu
Tên gọi Căn cứ lõm ra đời năm 1971 do Đảng bộ, nhân dân xã Bình Dương, Huyện uỷ huyện Thăng Bình,  Tỉnh  uỷ  tỉnh Quảng Nam  và một  số  đơn  vị  chiến  đấu  ở Thăng Bình năm 1969 – 1972 đặt tên. Còn tên gọi Bàu Bính có từ bao đời nay không rõ do ai đặt tên. Theo truyền miệng dân gian thì ở địa bàn xã Bình Dương có rất nhiều tên gọi về Bàu: Bàu Bính, Bầu Dừa, Bàu Bàng, Bàu Hoành, Bàu Cầu, Bàu Nãy…Vậy tên gọi Căn cứ Lõm Bàu Bính được  ra đời  từ năm 1971  (nguyên nhân do cuộc chiến  tranh kháng chiến chống Mỹ). 
Căn  cứ Lõm Bàu Bính  hiện  nay  thuộc  tổ  1,  thôn 4, xã Bình Dương,  huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Từ Thị trấn Hà Lam đi theo đường ĐT 613 về hướng Đông Bắc khoảng 16km là đến cổng  vào  làng  văn  hoá Bàu Bính Thượng,  từ  đây  rẽ  phải  đi  theo đường  bêtông  về hướng Bắc khoảng 1,5km là đến di tích. 
Từ năm 1969 – 1972, đế quốc Mỹ và bọn ngụy quyền  tay  sai  thực hiện  chiến  lược “Việt Nam hoá chiến tranh” dưới chiêu bài là “Bình định” và “Bình định cấp tốc” với sự hỗ trợ đắc lực về quân số và vũ khí của Mỹ đem áp dụng ở chiến trường miền Nam. Ở địa bàn tỉnh Quảng Nam, trong đó có xã Bình Dương, huyện Thăng Bình cũng được bọn chúng áp dụng. Cùng một lúc bọn địch thực hiện 3 thế cuộc chiến tranh: Chiến tranh dành dân; Chiến tranh bóp ngặt; Chiến tranh huỷ diệt. 
Từ 1969 đến 1970 địch tập trung quân chủ lực tổ chức càn quét đánh phá dài ngày ở vùng Đông Thăng Bình, Tam Kỳ…trọng tâm là đánh các xã Bình Dương, Bình Triều, Bình Giang… 
Sau hơn 10 ngày  thực hiện kế hoạch “Bình định cấp  tốc”, nhưng địch vẫn không đạt được mục đích  bởi  chúng  vấp  phải  sự  kháng  cự mãnh  liệt  của  quân  và  dân Thăng Bình, làm cho chúng bị tổn thất nặng nề và bị tiêu hao về quân số, mất nhiều vũ khí. 
         Xin nêu một số trận đánh tiêu biểu: Trận đánh bờ Làng Cây Mộc xã Bình Dương diệt 1 tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ; trận đánh  tại đồi gần nhà ông Tôn (thôn 4) diệt 24  tên Mỹ,  trận đánh  tại đồi gần nhà ông Tâm (thôn 1) diệt gần một trung đội quân Đại Hàn, bắn rơi 1 máy bay trực thăng và nhiều trận đánh khác cũng thắng lợi… Cuối năm 1969 và năm 1970 bọn địch huy động quân chủ lực mạnh tập trung càn quét đánh phá ác liệt ở Tam Kỳ, Thăng Bình. Đi đến đâu bọn chúng cũng tàn sát, bắn, giết người, cướp của, đốt sạch nhà cửa, xúc dân. Ngoài ra bọn địch còn thả “Mỹ lếch” lùng sục khắp nơi để bắn giết cán bộ, nhân dân ta.  Đầu năm 1971 sau khi lập được khu dồn tại chỗ (thôn 2, thôn 3 và 06 chốt điểm tại xã Bình Dương), lúc này du kích xã, thôn và gần 300 dân của thôn 4, thôn 5 bật ra đứng ở Bàu Bính. Một số du kích xã, thôn được điều bổ sung vào bộ đội địa phương huyện. Trước tình hình bức bách, gay go, phức tạp, bộ máy lãnh chỉ đạo được Đảng uỷ phân công như sau: đồng chí Phan Thanh Bốn - Thường vụ Tỉnh uỷ về làm xã đội trưởng, đồng chí Trần Ngộ thường vụ Huyện uỷ làm Bí thư xã Bình Dương. Sau khi ổn định bộ máy xong thì căn cứ Lõm Bàu Bính cũng được thành lập. Căn cứ lõm có diện tích trên 2km vuông, phía Bắc có 30 gia đình trụ bám của xã Duy Nghĩa, phía Tây có phòng  tuyến bố  trí nhiều bãi mìn, nhiều  loại mìn, nhiều ổ  tác chiến, có trạm tiền tiêu, có trạm Phẫu giã chiến…bên trong có công sự mật. Kỷ luật đi lại, ăn, ở trong căn cứ rất chặt chẽ, nếu sơ suất sẽ bị vướng mìn, hầm chông… 
        Và cũng trong thời gian này, Huyện uỷ huyện Thăng Bình quyết định thành lập nhanh Đảng uỷ cánh Đông, để cùng nhân dân, Đảng uỷ xã Bình Dương chiến đấu bảo vệ căn cứ Lõm Bàu Bính. Đồng chí Nguyễn Đức Bốn làm Bí thư Huyện uỷ kiêm Bí thư Đảng uỷ  cánh Đông,  cùng  các  đồng  chí Ngô  Thanh Dũng  Phó  Ban Dân  vận  tỉnh,  Phan Thanh Toán Uỷ viên Thường vụ Huyện uỷ làm uỷ viên, Ban chỉ huy đặt ngày tại căn cứ nhỏ bé này. Kế hoạch hoạt động của khu căn cứ Lõm được phân công rất cụ thể, ngoài việc bố trí các mặt chiến đấu bảo vệ khu vực căn cứ lõm, ban đêm phân công cán bộ, du kích vào khu dồn để nắm tình hình địch. Trạm tiền tiêu trực chiến 24/24. 
Từ đầu năm 1971 đến cuối năm 1972 địch nhiều lần dùng vũ lực mạnh đánh vào căn cứ Lõm Bàu Bính, lần nào cũng bị quân ta đánh trả quyết liệt, quân số bị tiêu hao rất nhiều. Đầu tháng 12/1972 địch điều động nhiều binh chủng, trang bị nhiều loại vũ khí dưới quyền chỉ huy của tướng Hoàng Xuân Lãm tư lệnh vùng 1 chiến thuật đánh vào căn cứ lõm. Ngoài pháo yểm trợ, bộ binh, xe tăng…còn có máy bay các loại ném bom liên tục trước khi quân bộ binh đổ vào. Nhận biết được tình hình, địch dùng áp lực mạnh, sự tăng cường quá lớn, nếu tiếp tục trụ  bám  tiếp  sẽ  không  có  lợi  cho quân, dân  ta. Để  bảo  tồn  lực  lượng, Ban  chỉ  huy thống nhất cho quân và dân trụ bám ở căn cứ Lõm Bàu Bính đi sơ tán và lực lượng bộ đội địa phương, dân quân, du kích bật ra khỏi căn cứ để bảo tồn lực lượng. Căn cứ Lõm Bàu Bính ở Bình Dương tồn tại hơn 2 năm ngay trước mặt quân thù nói lên ý chí quật cường,  tinh  thần yêu nước vô hạn, chiến đấu hết mình, chiến đấu đến cùng vủa quân và dân Bình Dương nói  riêng, quân và dân Thăng Bình, Quảng Nam nói chung. Căn cứ Lõm Bàu Bính, xã Bình Dương lúc bấy giờ được thành lập và tồn tại như một biểu tượng ngời ngời rực sáng để cho lớp lớp noi theo. 
          Khu căn cứ lõm hiện nay thuộc thôn 4 và thôn 5 xã Bình Dương. Tại nơi đây, hiện nay là những đồi dương  liễu  trải dài dọc  theo những nổng cát, những  ruộng  lúa  tươi  tốt, những đám lạc (đậu phụng) hàng nối hàng thẳng tắp. Dọc theo con đường bêtông liên xã, nhà cửa của nhân dân san sát nhau định cư trên chính khu căn cứ Lõm ngày xưa, nơi mà quân và dân Bình Dương đã trụ bám kiên cường trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ đầy cam go và ác liệt nhất. Hiện nay hình ảnh căn cứ Lõm của trận địa năm xưa không còn nữa. Thay vào đó là những ngôi nhà ngói khang trang, ruộng đồng tươi tốt…đang vươn mình đi lên. 
Khu căn cứ Lõm Bàu Bính thể hiện tinh thần đấu tranh trung kiên, bất khuất của nhân dân Bình Dương nói riêng và nhân dân Thăng Bình nói chung. 
Khu căn cứ Lõm Bàu Bính thể hiện tinh thần yêu nước, căm thù giặc sâu sắc của nhân dân Bình Dương, những con người một lòng gởi trọn niềm tin vào Đảng, vào Bác Hồ. 
Khu căn cứ Lõm Bàu Bính thể hiện mối quan hệ quân dân khắng khít vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp, bảo vệ quê hương, đất nước vì độc lập, tự do của dân tộc.
 
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Thăng Bình
 
THEO DÒNG LỊCH SỬ
 
01/8/1930: Ngày truyền thống ngành tuyên giáo của Đảng.
10/8/2004: Ngày vì nạn nhân chất độc màu da cam.
19/8/1945: Ngày Cách mạng tháng Tám thành công.
19/8/1945: Ngày thành lập Công an nhân dân Việt Nam.
20/8/1888: Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng.
28/8/2004: Ngày truyền thống Văn phòng cơ quan hành chính Nhà nước.
 
19/8/1945: Cách mạng tháng Tám, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
 
Đầu năm 1945, quân đội Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi trên chiến trường Châu Âu, giải phóng hàng loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt của phát xít Đức ở Béclin. Ngày 08/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện. Ngày 08/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật, đẩy quân phiệt Nhật vào tình thế thất bại. Ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, nhận định thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền đã tới, những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi. Uỷ ban khởi nghĩa gửi quân lệnh số 1 cho đồng bào và cho chiến sĩ cả nước ngay trong đêm ấy.
Ngày 16/8/1945, đại hội họp ở Tân Trào đã thông qua “10 Chính sách lớn của Việt Minh”, thông qua “lệnh tổng khởi nghĩa” quyết định Quốc Kỳ nền đỏ, sao vàng, chọn bài tiến quân ca làm Quốc ca và bầu ra uỷ ban dân tộc giải phóng Trung Ương, tức chính phủ lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn thể đồng bào ta hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu Nhân dân ta từ Bắc đến Nam đã tiến hành cuốc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng tám thành công.
Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ 14/8, một ngày sau khi Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc. Từ ngày 14 đến 18, tổng khởi nghĩa giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng miền Bắc, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và các thị xã Bắc Giang, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Hội An.
Ngày 17/8, ở Hà Nội, tổng hội viên chức chính quyền bù nhìn tổ chức một cuộc mittinh lớn tại Quảng trường nhà hát thành phố, có hàng vạn người tham gia để ủng hộ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Trong mittinh này, dưới sự lãnh đạo của xứ Uỷ Bắc Kỳ và thành Uỷ Hà Nội, quần chúng cách mạng đã giương cao lá cờ đỏ sao vàng, chiếm lấy diễn đàn cuộc mittinh, cán bộ Việt Minh đã diễn thuyết báo tin cho đồng bào biết quân phiệt Nhật đã đầu hàng và giới thiệu chủ trương đường lối cứu nước của Việt Minh, kêu gọi Nhân dân đánh đổ chính quyền bù nhìn thân Nhật. Cuộc mittinh đã tiến thành cuộc biểu tình, tuần hành thị uy, bắt đầu từ quảng trường nhà hát thành phố và lan khắp nơi trên phố phường Hà Nội. Cả Hà Nội tưng bừng khí thế sục sôi khởi nghĩa.
Ngụy quyền cực kỳ bối rối hoang mang, chúng dựng lên cái gọi là “Uỷ ban chính trị” đề nghị với Việt Minh: “Đằng nào các ông cũng thắng, nhưng để điều đình với Đồng Minh sẽ vào Đông Dương giải giáp quân Nhật, đề nghị vùng nông thôn cách thành phố 15km là thuộc quyền các ông, còn thành phố cần có nhân sĩ, trí thức đứng ra giao dịch với Đồng Minh”.
Đại biểu Việt Minh đã trả lời dứt khoát, “giao dịch với Đồng Minh lúc này, ngoài Việt Minh không ai có thể có lực lượng và danh nghĩa cả”.
Sáng ngày 19/8, theo lời kêu gọi của Việt Minh, cả Hà Nội vùng dậy dưới rừng cờ đỏ sao vàng xuống đường tiến thẳng về trung tâm Nhà hát thành phố để dự mittinh. Họ vừa đi vừa hô khẩu hiệu:
* Đả đảo chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.
* Thành lập chính phủ dân chủ cộng hòa Việt Nam.
* Anh em binh lính hãy mang súng gia nhập hàng ngũ chiến đấu bên cạnh Việt Minh.
* Việt Nam hoàn toàn độc lập.
Cuộc mittinh diễn ra vào ngày 19/8/1945. Sau loạt súng chào cờ và bài Tiến Quân Ca, đại biểu uỷ ban quân sự cách mạng đọc lời hiệu triệu của Việt Minh. Cuộc mittinh trở thành cuộc biểu tình vũ trang tiến vào chiếm phủ khâm sứ, trại lính bảo an và các cơ sở của chính phủ bù nhìn. Từ Hà Nội, làn sóng cách mạng toả đi khắp nơi, cả nước vùng dậy đấu tranh giành chính quyền và liên tiếp giành thắng lợi. Cách mạng tháng tám là sự kiện vĩ đại trong lich sự dân tộc, đánh dấu bước tiến nhảy vọt của cách mạng Việt Nam. Đây là lần đầu tiên giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền trong cả nước, lần đầu tiên chế độ dân chủ nhân dân ở Việt Nam ra đời.
Nguồn: lichsuvietnam.vn
 
 
Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20/8/1888 - 30/3/1980)
 
Đồng chí Tôn Đức Thắng, sinh ngày 20/8/1888 trong một gia đình nông dân khá giả tại Cù lao Ông Hổ, làng Mỹ Hoà Hưng, Tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên (nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang).
Năm 1906, sau khi học xong bậc sơ học ở trường tiểu học Long Xuyên, Tôn Đức Thắng rời quê lên Sài Gòn và đến với giai cấp công nhân đang trong quá trình hình thành. Truyền thống quật cường của quê hương đất nước và cuộc sống giai cấp công nhân đã sớm rèn luyện nhiệt tình yêu nước trong Tôn Đức Thắng. Từ đây, Tôn Đức Thắng đã hòa nhập trong phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp.
Tại Sài Gòn, Tôn Đức Thắng học việc và làm thợ ở nhiều nơi. Năm 1912, tổ chức cuộc bãi khóa của học sinh trường Cơ khí Á Châu (còn gọi là trường Bá Nghệ- nay là trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng) đòi thực hành quy chế của trường, chống đánh đập học sinh, phong trào này đã được công nhân Ba Son hưởng ứng.
Năm 1915- 1917, học thợ máy ở trường Bá Nghệ, nhưng chưa học xong đã bị động viên sang Pháp làm lính thợ phục vụ chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tôn Đức Thắng làm việc trên chiến hạm France, xưởng Arsenal, quân cảng Toulon.
Năm 1919, Tôn Đức Thắng bị điều động tới một đơn vị hải quân được lệnh tiến công Xêvaxtôpôn trên bờ Hắc Hải trấn áp nước Nga Xô Viết mới ra đời. Tôn Đức Thắng đã cùng các bạn lính thợ tham gia phản chiến bằng hành động kéo lá cờ đỏ lên cột cờ chiến hạm.
Năm 1920, sau cuộc binh biến, Tôn Đức Thắng bị trục xuất khỏi nước Pháp. Trở về Sài Gòn, Tôn Đức Thắng vận động những người có cùng chí hướng thành lập Công hội bí mật. Dưới sự lãnh đạo của Công hội mà đồng chí Tôn Đức Thắng là Hội Trưởng phong trào công nhân Sài Sòn- Chợ Lớn phát triển mạnh mẽ, tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân ở Ba Son, tháng 8 năm 1925.
Năm 1926, đồng chí tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên- tổ chức tiền thân của Đảng. Năm 1927, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Thành bộ Sài Gòn- Chợ Lớn và Kỳ bộ Nam Kỳ.
Cuối năm 1929, đồng chí bị thực dân Pháp bắt trong vụ án Bac-bi-ê. Tòa án thực dân Pháp kết án 20 năm khổ sai, đày ra Côn Đảo.
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí trở về đất liền trong lúc thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Đồng chí bắt tay ngay vào cuộc chiến đấu mới của đồng bào Nam Bộ và Nhân dân cả nước.
Ngày 06/01/1946, trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên đồng chí được Nhân dân Sài Gòn- Chợ Lớn bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Năm 1947, đồng chí được cử làm Tổng thanh tra của Chính phủ và quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Năm 1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc, đồng chí được bầu làm Trưởng Ban vận động thi đua ái quốc Trung ương.
Năm 1950 , đồng chí được bầu làm Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Xô.
Năm 1951, đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; được cử làm Phó trưởng Ban Dân vận- Mặt trận Trung ương.
Năm 1955, được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tháng 7, được bầu là Chủ tịch danh dự Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của Việt Nam và được Đại hội Hòa bình thế giới  bầu làm Ủy viên Hòa bình thế giới. Ngày 20/9, kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa I bầu làm Trưởng Ban Thường trực Quốc hội.
Năm 1960 , tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa II, đồng chí được bầu làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Năm 1969, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, tại kỳ họp đặc biệt Quốc hội khóa III, đồng chí được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Năm 1976, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI- Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, đồng chí được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Cả cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng chí Tôn Đức Thắng vinh dự được nhận Huân chương sao vàng- Huân chương cao quý của nước Việt Nam, Huân chương Lê-nin của nước Nga Xô Viết, Huân chương Soukhe- Bator của nước Mông Cổ và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Đồng chí Tôn Đức Thắng, hiến dâng cả đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc và cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đồng chí là một hình ảnh trong sáng của tinh thần cách mạng bất khuất và đạo đức chí công vô tư, tác phong khiêm tốn, giản dị, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: Suốt đời cần kiệm liêm chính, suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân”.
Do tuổi cao, sức yếu sau một thời gian bệnh nặng Người qua đời vào ngày 30/3/1980 tại Hà Nội, an táng tại nghĩa trang Mai Dịch.
Nguồn: www.baotangtonducthang.com
 
      
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH MỚI
 
Trong tài liệu sinh hoạt chi đoàn số 07 tháng 8/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên, các tổ chức Đoàn thông tin, cụ thể về Thông tư 12/2017/TT-BLĐTBXH quy định khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng trong giáo dục nghề nghiệp:
Thông tư áp dụng cho trường cao đẳng, trường trung cấp và các cơ sở khác có đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp ở trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng.
Về trình độ trung cấp:
Khối lượng kiến thức tối thiểu đối với trình độ trung cấp là 35 tín chỉ đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, 50 tín chỉ đối với người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở và có thời gian học tập từ 1 đến 2 năm học tuỳ theo từng ngành, nghề đào tạo.
Khối lượng kiến thức lý thuyết và kỹ năng thực hành tùy theo từng ngành, nghề đào tạo phải đảm bảo tỷ lệ: lý thuyết chiếm từ 25% - 45%; thực hành từ 55% - 75%.
Về trình độ cao đẳng:
Khối lượng kiến thức tối thiểu đối với trình độ cao đẳng là 60 tín chỉ và có thời gian học tập từ 02 đến 03 năm học tuỳ theo từng ngành, nghề đào tạo.
Khối lượng kiến thức lý thuyết và kỹ năng thực hành tùy theo từng ngành, nghề đào tạo phải đảm bảo tỷ lệ: lý thuyết chiếm từ 30% - 50%; thực hành từ 50% - 70%.
Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 15/6/2017.
Nguồn thư viện pháp luật
 
 
MÔ HÌNH- KINH NGHIỆM
 
Lập nghiệp từ 10 kg giun
Trang trại giun quế thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm là thành quả của anh Võ Văn Trúc (29 tuổi, thôn Phước Cẩm, xã Bình Tú, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) sau bao năm tha phương làm thuê kiếm sống, trở về quê nhà lập nghiệp.
"Mô hình nuôi giun quế của Trúc là rất mới tại địa phương, đem lại hiệu quả cao. Trúc là một thanh niên trẻ, có chí hướng làm ăn, dám nghĩ dám làm, kiên trì không ngại khó, lại nhiệt tình truyền kinh nghiệm cho người khác. Thật là đáng trân quý", ông Ngô Tấn Cơ - Phó chủ tịch Hội nông dân xã Bình Tú cho biết..
Gặp Trúc trong trang trại của mình khi anh đang lụi hụi múc phân cho hàng tấn giun giống ăn, mình lấm lem bụi đất. “Ngày nào cũng ở trang trại tiếp xúc toàn với giun, phân bò, phân trâu... nên quen rồi, có chi mô” - Trúc quệt mồ hôi, nhoẻn miệng cười.
“Mày đem đống phân về quê làm chi”
Khi Trúc vừa học hết lớp 9, cha anh bị tai biến nằm liệt giường. “Từ đó, gia đình nợ nần chồng chất, thằng Trúc phải nghỉ học, đi làm phụ tôi nuôi cha và bốn đứa em nhỏ dại” - bà Huỳnh Thị Nhân (61 tuổi, mẹ Trúc) nghẹn ngào nhớ lại.
Sau thời gian làm thuê ở quê, đến năm 2006 Trúc vác balô vào TP.HCM kiếm việc khác. Nhiều lần Trúc xuống chơi tại các trang trại nuôi giun quế ở Củ Chi và rất thích thú. “Thời điểm này phong trào nuôi giun quế nở rộ ở miền Nam, còn quê mình thì chưa có” - Trúc kể.
Sau khi tích cóp được một ít vốn, Trúc trở về quê với 10kg giun giống mua ở Củ Chi. “Thấy nó cầm một bao phân bò chứa giun, tôi mới la: Mày đem đống phân ấy về làm chi cho nhớp nhà? Mới đầu tui khuyên can, sau thấy nó kiên trì nên kệ” - bà Nhân cười.
“Trúc bắt đầu mở một trại rộng chừng vài chục mét vuông trong vườn nhà nuôi giun quế để làm thức ăn cho đàn gà, vịt, cá. Nhưng dần dà khi thấy ở Quảng Nam thị trường tiêu thụ giun quế tăng mạnh, anh mới “liều” đầu tư vốn mở rộng trang trại, thu mua thức ăn cho giun”,
“Càng nuôi càng thấy giun quế phù hợp với nhiệt độ nơi đây. Thức ăn của giun cũng dễ tìm như: phân gia súc, gia cầm, rác, rau quả... Con giun dễ sống, ít bệnh nên dễ nuôi hơn những loài khác” - Trúc kể.
Mở rộng quy mô
Hiện trang trại của anh có ba khu nuôi gồm: khu giun giống, giun thịt và phân giun. Anh đầu tư thêm một hệ thống phun sương để giữ ẩm chuồng trại và các máy xay xát cây cối, rau quả.
Trên thị trường, mỗi ký phân giun có giá từ 3.000-5.000 đồng, giun giống 10.000-20.000 đồng/kg, giun thịt 50.000-100.000 đồng/kg. Giun giống nuôi chừng 1,5-2 tháng là có thể bán được, còn giun thịt và phân giun Trúc cho biết có thể bán quanh năm.
Trúc cho rằng nuôi giun không khó lắm, cơ bản phải đảm bảo nhiệt độ thích hợp từ 20-280C, tưới nước, giữ ẩm chuồng trại thường xuyên. Cái khó nhất là đảm bảo thức ăn vì giun ăn phân gia súc, gia cầm nhưng nguồn thức ăn này ngày càng hạn hẹp.
Anh phải đến nhiều địa bàn trong tỉnh để thu mua phân về nuôi giun. Không chỉ chăm lo trang trại của mình, anh còn có khoảng 20 trại giun vệ tinh khác trong toàn tỉnh. Anh cung cấp giống, hỗ trợ kỹ thuật nuôi và bao tiêu sản phẩm đầu ra cho các trại.
Anh Lê Văn Công (35 tuổi, quê xã Bình Chánh, huyện Thăng Bình) - chủ một trại giun quế vệ tinh - bảo rằng Trúc không ngần ngại chỉ vẽ bí quyết, kinh nghiệm nuôi giun quế cho mọi người. “Trúc là người trẻ đầy nhiệt huyết, kiên trì với con đường mình chọn nên anh em cũng học hỏi nhiều từ cậu ấy” - anh Công tâm sự.
Phụ mẹ trả hết nợ
Mỗi năm trang trại của anh xuất bán hàng tấn giun thịt, giống và phân giun, chủ yếu cung cấp ở địa bàn Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Bình và các tỉnh Tây Nguyên, trong đó có năm đại lý lâu dài. Trung bình mỗi năm trang trại của anh thu lãi 180-200 triệu đồng. Ngoài ra anh còn kiếm thêm thu nhập từ việc bán heo, gà, vịt, cá, rau...

Nhờ nuôi giun quế, đến nay Trúc đã phụ mẹ trả hết nợ, ổn định thu nhập, nuôi sống cả nhà. Trúc còn lập một trang web Trùn quế Quảng Nam, thường xuyên cập nhật video, hình ảnh, bài viết về kỹ thuật, kinh nghiệm nuôi giun quế chia sẻ với mọi người.

Nguồn: thanhgiong.vn
 
 
THANH NIÊN VÀ NGHỀ NGHIỆP
 
5 phương pháp tăng cường hiệu suất công việc
 
24 giờ một ngày là hoàn toàn không đủ để hoàn thành tất cả công việc, cho nên, đừng cố làm việc một cách chăm chỉ mà hãy xử lý chúng một cách thật thông minh.
Khi xuất hiện những dấu hiệu trì trệ trong công việc, hãy thử áp dụng 5 phương pháp sau để cải thiện khối lượng công việc hoàn thành mỗi ngày của bản thân.
Lập kế hoạch công việc cho ngày tiếp theo
Hãy dành ít nhất 1 giờ trước khi ngủ để lập kế hoạch công việc cần phải hoàn thành vào ngày mai. Không ai có thể lường trước được một ngày có bao nhiêu việc “gấp và quan trọng” khác xen ngang vào nhiệm vụ chính của mỗi người. Kể cả khi điều này xảy ra, bạn vẫn có thể dễ dàng nắm bắt được tiến độ hoàn thành công việc nếu đã có kế hoạch từ trước.
Hãy dành thời gian để nghỉ ngơi
“Chăm chỉ chưa đủ, hãy làm việc thông minh” có nghĩa là không phải lúc nào làm nhiều việc cũng đem về hiệu quả. Về lâu dài, điều này còn khiến cho kết quả công việc không như ý muốn và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe.
Bằng cách phân tích các thói quen và hồ sơ sức khỏe của hơn 600.000 người ở Mỹ, châu Âu, và Úc, các nhà nghiên cứu tại trường University College London (Anh) chỉ ra rằng 1/3 số người ngồi lỳ tại bàn làm việc 55 tiếng/tuần có khả năng bị đột quỵ cao hơn so với những người làm việc ít hơn 40 tiếng/tuần. Tại những quốc gia phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, tỷ lệ người lao động tự tử vì công việc hằng năm luôn nằm ở mức báo động. Tính đến năm 2016, tại Nhật Bản ghi nhận hơn 2000 trường hợp Karoshi (tiếng lóng Nhật Bản có nghĩa “tự tử vì áp lực công việc”). Sự cống hiến hết mình công việc của họ đã trả giá bằng sinh mạng của mình. Vậy nên, đừng ngần ngại dành ra 5- 10 phút mỗi ngày để thư giãn.
Đa nhiệm chưa chắc đã hiệu quả
Thật khó để có hiệu quả, năng suất cao và làm việc với một ý thức rõ ràng về mục tiêu khi mỗi người có quá nhiều ưu tiên hoặc công việc chuyển đổi liên tục mỗi ngày. Mọi người càng cố gắng làm nhiều việc cùng lúc thì khả năng làm hỏng việc lại càng cao. Theo giáo sư Strayer thuộc bộ môn tâm lý học của đại học Utah (Mỹ), với phần lớn người bình thường, “não bộ không thể xử lý được lượng thông tin quá nhiều từ các tác vụ” và nghiên cứu cho thấy chỉ có 2% người là có thể đa nhiệm mà mang lại hiệu quả tốt. Đa nhiệm thực tế là việc làm tốn thời gian, làm con người dễ dàng mắc nhiều sai lầm hơn bằng cách khiến chúng ta làm việc một cách vô thức và kìm hãm sự sáng tạo. Thay vào đó, tập trung giải quyết công việc theo thứ tự ưu tiên sẽ dễ dàng mang lại hiệu quả cao hơn.
Hạn chế tác nhân gây sao lãng công việc
Tuy rằng rất khó tránh khỏi những công việc đột xuất cần được ưu tiên giải quyết, hãy cố gắng hạn chế hết mức có thể. Áp dụng ma trận quản lý công việc của cố tổng thống Mỹ Eisenhower, ta có thể dễ dàng chia công việc theo 4 cấp độ: quan trọng, không quan trọng, cần thiết, không cần thiết. Dựa vào thứ tự ưu tiên công việc, bạn có thể xếp những công việc đột xuất vào một trong 4 cấp độ trên, qua đó đưa ra phương pháp xử lý hiệu quả nhất.
Biến không gian làm việc trở nên sạch sẽ
Một không gian làm việc hiệu quả cần đáp ứng được những yêu cầu cơ bản về ánh sáng, thiết bị và một bàn làm việc thật ngăn nắp. Hãy dành từ 5 – 10 phút trước khi rời khỏi văn phòng, để dọn dẹp những mẩu giấy nhớ không quan trọng hay những xấp giấy vụn và sắp xếp lại các hồ sơ công việc vào đúng vị trí của nó. Không ai muốn tốn thời gian vào việc thu dọn rác của mình vào mỗi buổi sáng trước khi bắt đầu vào công việc chính.
Chương trình Total Productivity của The OlymWorld Academy® chỉ ra rằng, năng suất lao động là một quá trình đi từ mục tiêu tới mô thức và nỗ lực bản thân để hoàn thành mục tiêu. Khác biệt giữa thành công và thất bại nằm chính ở khả năng duy trì và tối ưu hóa năng suất lao động theo quá trình kể trên.
Theo doanhnhanonline
 
THANH NIÊN VÀ PHÁP LUẬT
 
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 07/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên nội dung Nghị định số 44/2017/NĐ-CP quy định mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp quy định chi tiết một số điều tỉ lệ đóng 0,5 % của người sử dụng lao động vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Nghị định 44/2017/NĐ-CP được Chính phủ ban hành quy định tỉ lệ đóng 0,5 % của người sử dụng lao động vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Theo đó, từ ngày 01/6/2017 mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp của người sử dụng lao động là 0.5% trên quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của người lao động.
So với quy định của pháp luật hiện hành (Điều 4 của Nghị định 37/2016/NĐ-CP hướng dẫn Luật an toàn, vệ sinh lao động về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp bắt buộc) thì mức đóng này đã giảm 0.5 % (mức hiện hành là 1%).
Quy định này phần nào sẽ giúp doanh nghiệp giảm bớt chi phí để thuận lợi hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
  Chi tiết nội dung quy định tại Nghị định số 44/2017/NĐ-CP ngày 14/4/2017
(https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bao-hiem/Nghi-dinh-44-2017-ND-CP-muc-dong-bao-hiem-xa-hoi-bat-buoc-vao-Quy-bao-hiem-tai-nan-lao-dong-336617.aspx)
Nguồn: vanban.chinhphu.vn
 
BÀI HÁT THANH NIÊN
 
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số tháng 07/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên lời bài hát “Mười chín tháng Tám”
 
Mười chín tháng Tám
Sáng tác: Xuân Oanh
Toàn dân Việt Nam đứng đều lên góp sức một ngàу.
Thề đem xương máu quуết lòng chiến đấu cho tương lai.
Mười chín tháng Tám, khi quốc dân căm hờn kêu thét.
Tiến lên cùng hô: “Mau diệt tan hết quân thù chung!”.
Mười chín tháng Tám. Ánh sao tự do đưa tới.
Cờ baу nơi nơi, muôn ánh sao vàng.
Máu pha tươi hồng trên lá cờ baу khắp chốn giang sơn.
Người Việt Nam đều thống nhất reo vang lời thề,
Mười chín tháng Tám, chớ quên là ngàу khởi nghĩa.
Hạnh phúc sáng tỏ, non sông Việt Nam.
 
ĐỊNH HƯỚNG SINH HOẠT CHI ĐOÀN
 
1. Triển khai quán triệt Chỉ thị số 05- CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, trọng tâm học tập chuyên đề năm 2017: Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” trong nội bộ (dành cho cán bộ Đoàn); Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tinh thần học tập suốt đời (dành cho ĐVTN)
2. Tập trung tuyên truyền và tổ chức các hoạt động có ý nghĩa kỷ niệm 72 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945- 19/8/2017) và Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam (02/9/1945-02/9/2017); kỷ niệm 129 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng
3. Tuyên truyền kết quả chiến dịch Thanh niên tình nguyện hè năm 2017.
4. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền các hoạt động chào mừng Đại hội Đại biểu tỉnh Ninh Thuận lần thứ VI, nhiệm kỳ 2017-2022, tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XI, nhiệm kỳ 2017-2022
 
 
 
TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN
Số 08 -Tháng 9/2017
 
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
 
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách đối với nông dân và sự vận dụng của   Đảng ta trong quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới
 
Nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò của nông dân trong chiến đấu, trong sản xuất; là lực lượng to lớn của khối liên minh và đại đoàn kết dân tộc.
Để nông dân thực hiện được vai trò to lớn đối với cách mạng, Người căn dặn những người lãnh đạo, Chính phủ các công việc cần phải làm, đó là:
“Nông vận là phải:
- Tổ chức nông dân thật chặt chẽ.
- Đoàn kết nông dân thật khăng khít.
- Huấn luyện nông dân thật giác ngộ.
Lãnh đạo nông dân hăng hái đấu tranh cho lợi ích của nông dân, của Tổ quốc. Vận động nông dân là phải vận động thế nào cho toàn thể nông dân động, nghĩa là: Làm cho nông dân hiểu rõ quyền lợi của dân tộc và của giới mình; làm cho nông dân vào Hội Nông dân cứu quốc cho đông để phấn đấu cho mục đích của mình và tích cực tham gia công cuộc kháng chiến kiến quốc”([1]).
Đây chính là tư tưởng, đường lối, phương châm công tác dân vận, công tác quần chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó thể hiện tầm nhìn chiến lược của Người đối với cách mạng Việt Nam, đồng thời kế thừa truyền thống dân tộc của ông cha “lấy dân làm gốc”- cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân.
Ngày 05/02/1953, trong Thư gửi Hội nghị nông vận và dân vận toàn quốc, Người đã chỉ rõ: “Nông dân lao động là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất chắc chắn của giai cấp công nhân”([2]). Do đó, “muốn kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công phải dựa vào quần chúng nông dân, muốn dựa vào nông dân ắt phải bồi dưỡng lực lượng của họ. Muốn nông dân có lực lượng dồi dào thì phải làm cho họ có ruộng cày, có cơm ăn, áo mặc, nhà ở”(2’). Như vậy, theo Người nhận thức đúng, đường lối, phương châm đúng là chưa đủ mà vấn đề quan trọng là để nông dân phát huy được vai trò, sức mạnh của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành nhiều sự quan tâm đến nông dân. Người luôn luôn trăn trở, lo lắng đến cuộc sống của người nông dân, “những người đóng góp nhiều nhất cho kháng chiến”. Trong Báo cáo tại Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II, ngày 06/02/1953, Người đã quyết định: “Chính phủ quyết định phải triệt để giảm tô, để nông dân được hưởng lợi ích bước đầu của họ, để nông dân hăng hái đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến”([3]). Và Người chỉ thị “Chính phủ định ra luật lệ cải cách ruộng đất, Đảng phái cán bộ về xã giúp đồng bào nông dân đấu tranh thực hiện Người cày có ruộng. Đó là bước đầu”([4]). Từ đó, Người chỉ rõ trách nhiệm của người nông dân là “đã có ruộng, nông dân cần phải ra sức tăng gia sản xuất, để bảo đảm đời sống ấm no”(4’). Người cũng xác định trách nhiệm của Đảng và Chính phủ: “Đảng và Chính phủ cũng sẽ giúp thêm, như thu mua lâm sản và thổ sản cho nông dân, giúp thêm cán bộ, cho vay vốn”([5]). Nhưng vẫn lưu ý nhắc nhở “các cô, các chú chớ có ỷ lại, phải cố gắng tự lực cánh sinh là chính, việc giúp đỡ là phụ” (5’).
Tại Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III, ngày 22/7/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, tất cả đường lối, phương châm, chính sách… của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân nói chung, của nông dân nói riêng. Muốn đạt mục đích đó thì nhất định phải củng cố và phát triển hợp tác xã cho thật tốt, phải nâng cao không ngừng thu nhập của xã viên. Người cũng đã chỉ rõ quá trình, bước đi để xây dựng “nông thôn mới” thiết thực, có hiệu quả, đó là phải xây dựng cơ sở vật chất cho người nông dân để họ ổn định và có điều kiện tăng gia sản xuất, trước hết là “nhà ở”. Người cho rằng muốn xây dựng nông thôn mới thì việc đầu tiên của nông thôn mới là xây dựng nhà ở cho đàng hoàng vì an cư thì mới lạc nghiệp.
Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và xây dựng nông thôn mới, Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: “Đối với giai cấp nông dân… tập trung sự chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, phát triển nông thôn; thực hiện tốt các chính sách về ruộng đất, phát triển nông nghiệp toàn diện, tiêu thụ nông sản hàng hóa, bảo hiểm sản xuất và bảo hiểm xã hội; phát huy lợi thế từng vùng, giúp đỡ vùng khó khăn; phân bố dân cư theo quy hoạch, phát triển ngành nghề, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, xây dựng nông thôn mới”([6]).
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta tiếp tục khẳng định, cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Cụ thể: “Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh. Hình thành các khu dân cư đô thị hóa với kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội đồng bộ như: Thủy lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan; bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội”.
Tiếp tục tư tưởng chỉ đạo của Đại hội Đảng lần thứ X, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta đã ra Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó khẳng định: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.
Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn được Đảng ta xác định là vấn đề có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Ngày 04/6/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020. Đây là sự cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn đời sống, khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng ta. Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010- 2020 đã xác định rõ mục tiêu, thời gian, phạm vi thực hiện, đồng thời nêu lên nội dung, các giải pháp cũng như tiêu chí cụ thể của nông thôn mới.
Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục chỉ đạo cần tăng nhanh sản lượng và kim ngạch xuất khẩu nông sản, nâng cao thu nhập và đời sống nông dân; khuyến khích tập trung ruộng đất; phát triển trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp phù hợp về quy mô và điều kiện của từng vùng; đổi mới cơ bản phương thức tổ chức kinh doanh nông sản, trước hết là kinh doanh lúa gạo; bảo đảm phân phối lợi ích hợp lý trong từng công đoạn từ sản xuất đến tiêu dùng; đẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại trong sản xuất; hỗ trợ phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao…
Về xây dựng nông thôn mới, Đại hội XI chỉ rõ: Quy hoạch phát triển nông thôn gắn với phát triển đô thị và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. Triển khai Chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy những nét văn hóa đặc sắc của nông thôn Việt Nam. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để khai thác khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động. Triển khai có hiệu quả Chương trình đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm. Thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và các đối tượng chính sách, chương trình nhà ở cho đồng bào vùng bão, lũ; bố trí hợp lý dân cư, bảo đảm an toàn ở những vùng ngập lũ, sạt lở núi, ven sông, ven biển.
Như vậy, có thể nói Đảng ta đã quán triệt sâu sắc, cụ thể, phù hợp với từng thời kỳ lịch sử tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Người nông dân không thể tách rời môi trường sống của họ đó là sản xuất nông nghiệp và địa bàn nông thôn. Do đó, tư tưởng, quan điểm, đường lối, chính sách đối với người nông dân cũng đồng thời là đối với nông nghiệp và nông thôn. Ba vấn đề này là sự thống nhất biện chứng trong tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới chính là để thực hiện chính sách đối với nông dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân.
Sau 30 năm đổi mới, thực hiện tư tưởng cũng như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với nông dân gắn liền với phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, tại Đại hội lần thứ XII Đảng ta khẳng định, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn có chuyển biến; nông nghiệp phát triển toàn diện hơn… Xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới còn chậm; các ngành dịch vụ chất lượng cao chậm phát triển; sự phát triển giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng còn thiếu liên kết và phối hợp; chất lượng nguồn nhân lực thấp, chuyển dịch cơ cấu lao động chưa tương ứng với chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
Từ thực trạng đó, Đại hội lần thứ XII của Đảng đề ra yêu cầu trong thời gian tới cần phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu.
Đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp sinh thái phát triển toàn diện, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Bên cạnh đó, chú trọng đầu tư vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới và quá trình đô thị hóa một cách hợp lý đồng thời phát huy vai trò chủ thể của hộ nông dân và kinh tế hộ…
Tư tưởng, chủ trương, đường lối, chính sách của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nông dân, gắn với phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới đã được Đảng và Nhà nước ta quán triệt, vận dụng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới tư tưởng, chủ trương, đường lối, chính sách đó đã trở thành “kim chỉ nam” để Đảng ta xây dựng đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung, trong đó có vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Điều đó đã được khẳng định sâu sắc, nhất quán và cụ thể hơn từ Đại hội lần thứ IX của Đảng cho đến nay. Sự quán triệt, vận dụng tư tưởng của Người lại càng chứng tỏ tầm nhìn vĩ đại, sự quan tâm và tình yêu thương sâu sắc của Người đối với nhân dân lao động, trong đó có nông dân./.
Nguồn: bqllang.gov.vn
 
 
DI TÍCH LỊCH SỬ TẠI THĂNG BÌNH
 
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 08 tháng 9/2017, chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn đoàn viên thanh niên, các tổ chức Đoàn về Làng nghề hương truyền thống.

Có một làng nghề ra đời cách đây 250 năm, trải qua các giai đoạn thăng trầm của lịch sử, cư dân nơi đây vẫn duy trì và phát triển làng nghề, bởi nghề này đã mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể, tạo việc làm và tăng thu nhập cho nông dân khi mùa vụ nhàn rỗi - Đó là nghề làm hương ở Khu phố 4, thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, người dân còn gọi là làng Quán Hương.
Hiện nay, ở làng hương – Quán Hương thị trấn Hà Lam huyện Thăng Bình có hơn 350 hộ đang làm hương, giải quyết việc làm cho 450 lao động nông nghiệp khi mùa vụ nông nhàn. Có 5 cơ sở đóng tại làng nghề vừa xay bột nguyên liệu, vừa kinh doanh các loại bột nguyên liệu khác do chưa sản xuất được để cung cấp cho nhu cầu sản xuất hương của các hộ. Với sản lượng cung cấp hàng tháng là 480 tấn gồm: bột quế, bột keo, bột cưa và các loại bột khác. Ngoài ra, còn cung cấp các nguyên liệu khác như: cây chu và nhãn mác cho các hộ trong làng nghề. Mỗi năm, thị trường tiêu thụ trên 50.000 muôn hương (01 muôn tương đương với 10.000 cây), doanh thu trên 7 tỷ đồng.  Theo anh Lê Văn Anh ở tổ 4 khu phố 4 với 23 năm theo nghề làm hương tâm sự; “Nghề làm hương không vất vả như nghề nông nhưng có thu nhập cao và có điều kiện giải quyết việc làm trong gia đình. Người lớn thì đảm nhận khâu nhồi bột, nhúng hương, trẻ em và người già thì xe hương và gói hương”. Nhiều hộ có thu nhập cao ở làng hương với mức trên 50 triệu đồng/năm nhờ sản xuất các loại hương trầm, hương quế, hương bổi. Một ngày có hộ sản xuất 2 muôn hương, đó là ngày thường, còn dịp tết, ngày rằm hàng tháng thì sản lượng tăng gấp 3 lần. Thị trường tiêu thụ chủ yếu ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam và các tỉnh Tây Nguyên, Đồng Nai, một số xuất khẩu sang Lào và Campuchia.
Với hiệu quả kinh tế từ nghề làm hương mang lại, UBND tỉnh Quảng Nam đã phê duyệt dự án khôi phục  và phát triển làng nghề truyền thống làm hương thị trấn Hà Lam với tổng kinh phí gần 6 tỷ đồng, với quy mô nội dung đầu tư gồm: Khu trưng bày sản phẩm, xây dựng cơ sở sản xuất tập trung, khu nhà xưởng, công trình phục vụ sản xuất, trạm biến áp điện 100KVA, đường dây hạ thế và chiếu sáng, hệ thống cấp thoát nước và hệ thống xử lý môi trường, thiết bị chẻ tre làm chu hương, máy xay bột, bàn xe, giàn phơi, thiết bị sấy, đào tạo chuyển giao công nghệ, mua xe vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm. Trong tổng mức đầu tư do ngân sách tỉnh, huyện hỗ trợ và vay Ngân hàng, nhân dân làng nghề phải đóng góp trên 2,3 tỷ đồng. Huyện Thăng Bình đang xúc tiến triển khai dự án này. Bước đầu đã xây dựng cổng làng, làm đường bê tông dài 1100 mét, trồng cây cau hai bên đường đã tạo ra cảnh quan môi trường xanh - sạch - đẹp. Đặc biệt, đã chuyển giao công nghệ sản xuất hương vòng Hà Tây vào làng nghề. Cây hương vòng có nhiều ưu điểm như kích thước gọn, dễ vận chuyển và bảo quản, thời gian cháy lâu, không phụ thuộc vào nguồn chu như sản xuất hương cây, do đó, làng nghề có thể tăng tính chủ động trong sản xuất ngay từ nguyên liệu đầu vào. Qua chuyển giao công nghệ, bà con đã sản xuất hai loại hương vòng 24 giờ và 48 giờ tham gia hội chợ làng nghề Xưa và Nay năm 2006 và hội chợ Xuân Đinh Hợi của tỉnh được đánh giá cao và đã có nhiều hộ trong tỉnh đăng ký bán sản phẩm hương của làng nghề. Thực tế cho thấy, sản xuất hương vòng đã đem lại lợi nhuận cao nhưng phải có sự đầu tư mua sắm trang thiết bị và có chính sách ưu đãi đối với làng nghề.
Làng nghề hương truyền thống Quán Hương được khôi phục và phát triển sẽ tạo ra một diện mạo mới về làng nghề truyền thống nông thôn với phương thức sản xuất mang tính tập trung, đảm bảo môi trường và đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, góp phần tăng trưởng nền kinh tế địa phương trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn theo nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện Thăng Bình đã đề ra. Nghề hương cũng chính là nét văn hóa đặc trưng của quê hương Thăng Bình, trong tương lai không xa sẽ thu hút khách du lịch thập phương đến với làng nghề.
 
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Thăng Bình
 
 
THEO DÒNG LỊCH SỬ
 
- 02/9/1945: Quốc khánh Nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- 02/9/1969: Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần.
- 12/9/1930: Xô Viết Nghệ Tĩnh.
- 20/9/1977: Việt Nam trở thành thành viên Liên Hiệp Quốc.
- 23/9/1977: Nam Bộ kháng chiến.
- 27/9/1940: Khởi nghĩa Bắc Sơn.
- 30/9/1988: Kỷ niệm ngày mất của đồng chí Trường Chinh.
 
02/9/1945: Quốc khánh Nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
 
Cách mạng tháng tám thành công, Trung ương Đảng phái đồng chí Lê Đức Thọ lên chiến khu đón chủ tịch Hồ Chí Minh về Hà Nội và nghỉ tại thôn Phú Gia, xã Phú Thượng, Từ Liêm. Sau đó Người về ở nhà số 48 Hàng Ngang, Hà Nội.
Tại cuộc họp của chính phủ lâm thời, theo đề nghị của Người một chính phủ thống nhất toàn quốc thể hiện ở chính sách đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và những nhân sĩ tiến bộ được thành lập.
Buổi trưa ngày 02/9/1945, tại quảng trường Ba Đình- Hà Nội, trong cuộc mítting của trên 50 vạn nhân dân Hà Nội và vùng lân cận chào mừng chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản tuyên ngôn độc lập tuyên bố với nhân dân Việt Nam và thế giới rằng: Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra đời. Bản tuyên ngôn độc lập khẳng định:
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng. Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập!… Nước Việt Nam có quyền đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Tuyên ngôn độc lập do chủ tịch Hồ Chí Minh viết là sự phát triển của bản yêu cầu mà Người gửi cho hội nghị hòa bình ở Vec-xây năm 1919, là sự phát triển của chương trình Việt Minh mà người soạn thảo năm 1941. Nó là kết tinh những quyền lợi cơ bản và những nguyện vọng tha thiết nhất của dân tộc Việt Nam và nói lên tâm hồn trong sáng, khí phách hào hùng của nhân dân ta.
“Bản tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trên những hải đảo xa xôi, trên những máy chém, trên chiến trường. Bản tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu hy vọng gắng sức và tin tưởng của hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam” (Trần Dân Tiên - những mẩu chuyện về đời hoạt động của chủ tịch Hồ Chí Minh).
Ngày độc lập 02/9/1945 là ngày hội lớn của dân tộc Việt Nam, chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở nước ta, đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên nhân dân ta làm chủ vận mệnh của mình để thực hiện độc lập, tự do và hạnh phúc.
Từ đó, ngày 02/9 trở thành ngày quốc khánh của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
 
23/9/1945: Ngày Nam Bộ Kháng chiến
 
Chỉ 03 tuần lễ sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, ngày 23/9/1945 thực dân Pháp núp dưới bóng quân đội Anh tước vũ khí của quân đội Nhật ở Nam Bộ, âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta lần nữa. 6.000 quân Pháp dựa vào hơn 1 vạn quân Anh đã trắng trợn gây hấn ở thành phố Sài Gòn. Chúng mưu toan chiếm Nam Bộ làm bàn đạp chiếm cả Việt Nam và Đông Dương.
7h sáng ngày 23/9, Xứ uỷ và Uỷ ban hành chính Nam Bộ (sau đổi tên thành Uỷ ban kháng chiến) họp khẩn cấp tại phố Cây Mai (Chợ Lớn) có đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Trung ương Đảng và tổng bộ Việt Minh tham dự. Hội nghị quyết định phát động nhân dân kiên quyết kháng chiến chống xâm lược. Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập, ra lệnh tổng bãi công, bãi thị, bất hợp tác với địch, phong toả địch. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Nam Bộ sục sôi căm thù, nhất tề đứng dậy, xông ra mặt trận quyết chiến với quân xâm lược, mở ra một trang sử oanh liệt mới: Nam Bộ Kháng Chiến.
Chiều 23/9, cả Sài Gòn đình công, không hợp tác với Pháp. Các công sở xí nghiệp, hãng buôn đóng cửa, chợ không họp, xe ngừng chạy. Các ụ chiến đấu mọc lên khắp nơi. Ngay những ngày đầu, quân Sài Gòn đã tiêu hao sinh lực địch và phá huỷ một phần cơ sở vật chất của chúng. Tiếng súng kháng chiến ở Sài Gòn chấn động cả nước. Nhiều tỉnh Nam Bộ đưa lực lượng đoàn viên, thanh niên về góp sức với Sài Gòn chống quân xâm lược. 
Ban thường vụ Trung ương Đảng họp chủ trương đánh mạnh quân Pháp ở Nam bộ, quyết tâm giành thắng lợi ở chiến trường để tạo điều kiện cho việc đấu tranh với quân Tưởng ở ngoài Bắc. Ngày 27/9/1945, chủ tich Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào miền Nam khẳng định quyết tâm kháng chiến của Đảng, chính phủ và nhân dân ta, chỉ rõ mục tiêu chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc. Người nêu cao lẽ sống “thà chết tự do hơn sống nô lệ” của nhân dân ta. Đáp lời kêu gọi của Người, xứng đáng với lòng tin cậy và sự cổ vũ của nhân dân cả nước, nhân dân Nam Bộ vùng dậy dũng cảm đánh trả kẻ địch có trang bị hiện đại, làm thất bại âm mưu của địch, tạo điều kiện để ta củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ mới, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc.
Tháng 02/1946, thay mặt chính phủ và đồng bào cả nước, chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Nam Bộ danh hiệu vẻ vang: “Thành đồng Tổ quốc”.
  Nguồn: www.baotangtonducthang.com
      
 
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH MỚI
 
Trong tài liệu sinh hoạt chi đoàn số 08/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên, các tổ chức Đoàn thông tin, cụ thể về Nghị định số 78/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể trách nhiệm của bộ, ngành, UBND các cấp trong công tác thanh niên:
Ngày 03/7/2017, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 120/2007/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thanh niên.
Theo đó, Nghị định sửa đổi, bổ sung các Điều 20, 21 và 22 của Nghị định số 120/2007/NĐ-CP theo hướng quy định, phân công chi tiết, cụ thể trách nhiệm của các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp, Ủy ban Quốc gia về thanh niên trong công tác thanh niên như: Xây dựng chính sách, quản lý nhà nước; đào tạo, tư vấn hướng nghiệp; giáo dục nghề nghiệp, hỗ trợ tư vấn việc làm; tham gia nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, khoa học tiên tiến trong học tập, sản xuất và đời sống; nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu, gương mẫu bảo vệ môi trường; tổ chức các hoạt động văn hóa - nghệ thuật, thể dục - thể thao; giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, bảo vệ an ninh Tổ quốc; giải quyết việc làm cho thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự xuất ngũ, thanh niên thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân đã xuất ngũ, thanh niên tham gia phòng, chống tệ nạn xã hội; nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý cho thanh niên; đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ lãnh đạo từ thanh niên ưu tú là người dân tộc thiểu số; công tác tư vấn tình yêu, hôn nhân và gia đình; chăm sóc sức khỏe sinh sản; phòng, chống tác hại của thuốc lá, rượu bia, các bệnh truyền nhiễm…
Đồng thời, Nghị định này đã bãi bỏ Điều 24 quy định về trách nhiệm hướng dẫn thi hành của Nghị định số 120/2007/NĐ-CP ngày 23/7/2007 của Chính phủ.
Nghị định số 78/2017/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực kể từ ngày 20/8/2017.
Nguồn thư viện pháp luật
 
SỔ TAY NGHIỆP VỤ

Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 08 tháng 9/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên, tổ chức Đoàn về Kỹ năng tổ chức hoạt động trong thanh niên:

 
 
Nguồn: http:tinhnguyenhe.doanthanhnien.vn
 
MÔ HÌNH- KINH NGHIỆM
 
Chàng trai biến mảnh đất phèn thành trại trồng nấm
(CTG) Một thanh niên đã quyết tâm biến vùng đất phèn tưởng chừng không thể sinh lợi trở thành mô hình trồng nấm kỹ thuật cao thành công.
Đó là mô hình trồng nấm của anh Võ Ngọc Hiệp, vừa được Thành Đoàn TP.HCM tuyên dương gương Thanh niên nông thôn làm kinh tế giỏi.
Anh Hiệp cho biết chỉ học hết THPT, sau đó chọn nghề buôn bán hoa để sinh sống nhưng làm nghề này cực quá, thu nhập lại không ổn định, hoa bán không kịp là hư hết, có khi lỗ vốn.
Năm 2006, anh Hiệp tham gia một khóa học 3 tháng về kỹ thuật trồng nấm ở khu nông nghiệp công nghệ cao ở huyện Củ Chi, đồng thời mua tài liệu về tự nghiên cứu. Thấy hướng trồng nấm cũng khả thi, anh muốn biến mảnh đất phèn của gia đình bấy lâu nay bỏ không để phát triển mô hình kinh tế nông nghiệp công nghệ tại nhà.
Thế là tháng 6/2016, anh Hiệp huy động vốn từ người thân và nguồn tích lũy tổng cộng được 300 triệu đồng, bắt tay vào xây dựng trang trại trồng nấm linh chi. Nấm linh chi giá bán trên thị trường từ 400.000 - 800.000 đồng/kg (tùy loại). Sau vụ nấm đầu tiên, thấy khả quan nên anh vay huy động thêm 200 triệu đồng để mở trang trại trồng nấm bào ngư xám.
Hiện tại, trang trại của Hiệp với diện tích 433m2, đang trồng 30.000 phôi nấm cả linh chi và bào ngư xám, mỗi tháng trừ hết chi phí, lãi được hơn 30 triệu đồng.
“Mình đang cần 300 triệu đồng để mở rộng trang trại trồng thêm 15.000 phôi nấm bào ngư và linh chi nữa. Vì vậy, mình đang làm hồ sơ vay vốn dành cho thanh niên khởi nghiệp nhưng không biết có được duyệt hay không”, anh Hiệp chia sẻ.
Không dừng lại ở đó, Hiệp tiết lộ: “Trong tương lai gần, mình sẽ hướng đến thực hiện các khâu chiết xuất từ nấm thô thành các loại sản phẩm bột, trà nấm linh chi. Riêng nấm bào ngư xám cũng sẽ đóng gói bao bì sao cho thật chuyên nghiệp, đẹp mắt để sản phẩm bán ra thị trường được giá hơn, chứ hiện nay sản phẩm của mình chỉ cung cấp cho những người mua đi bán lại ở các chợ nhỏ lẻ nên lợi nhuận không được như ý”.
Không chỉ làm giàu cho bản thân, anh còn ngỏ lời: “Nếu bạn trẻ nào muốn lập nghiệp từ nghề trồng nấm, cứ đến trại của mình, tụi mình sẽ hướng dẫn tận tình về kỹ thuật chăm sóc, cách phòng chống sâu bệnh cho nấm để khi trồng sẽ đạt hiệu quả cao”.
Trại trồng nấm của anh Hiệp là mô hình mẫu để thanh niên nông thôn địa phương và các tỉnh lân cận đến tham quan, tìm hiểu học hỏi kinh nghiệm để áp dụng làm ăn.
 Nguồn: thanhgiong.vn
 
THANH NIÊN VÀ NGHỀ NGHIỆP
 
7 điều học mãi không thừa dành cho người trẻ
 
(CTG) Trải qua nhiều dự án- có thất bại, có đạt được những bước tiến- tôi góp nhặt vài kinh nghiệm sống cho bản thân và tôi nghĩ nó sẽ có ích cho người trẻ.
1. Quan sát
Kỹ năng quan sát là điều đầu tiên chúng ta cần phải luyện tập. Ở đây tôi muốn nói đến quan sát bằng mắt, không phải quan sát bằng óc hay bằng cảm tính.
Khi tham gia một buổi networking, bạn có biết ai là người quan trọng để tiếp cận không?
Bạn muốn mở một nhà hàng? Khi vào một quán phở mà gặp rác dưới chân, nhân viên phục vụ thờ ơ, bàn chưa được lau sạch- bạn có bực không? Nếu không khó chịu về điều đó thì liệu nhà hàng của bạn có khá hơn không?
Khi chịu khó quan sát, bạn sẽ thấy được rất nhiều việc cần làm khi khởi nghiệp.
2. Tự kỷ luật bản thân
Khi tự khởi nghiệp, không ai giám sát thời gian làm việc bạn. Chính vì vậy bạn cần tự đặt ra thời gian biểu cho mình và có những giải pháp buộc mình phải tuân thủ kỷ luật, tránh tình trạng hôm nay mệt thì nghỉ, mai chán thì ngủ nướng.
Khi làm chủ, bạn không phải chỉ làm cho bản thân mà còn làm vì các cộng sự của mình. Khi là sếp, bạn phải làm gương cho nhân viên. Đặc biệt khi khởi nghiệp, bạn là người phải giải quyết tất cả những vấn đề phát sinh trong giai đoạn đầu, nếu không có kỷ luật làm việc, hệ thống của bạn sẽ khó lòng “chạy”.
Sinh hoạt và làm việc có kỷ luật còn đảm bảo cho bạn có một thể chất tốt, một trí óc linh hoạt. Một cơ thể hiệu ốm yếu, một tinh thần mệt mỏi không thể nào cho năng suất tốt được. Hãy dành ra mỗi ngày 30 phút để tập thể dục để có một cơ thể khỏe mạnh.
Tự đặt ra và thực hiện được kỷ luật bản thân như thế chúng ta mới có đủ nghị lực để tiếp nhận và giải quyết những khó khăn trong kinh doanh.
3. Làm quen với việc bị từ chối
Khi đầu tư vào một dự án, hoặc bắt đầu khởi nghiệp, chuyện bị từ chối có thể đến với bạn bất cứ lúc nào. Khi bắt đầu đi bán hàng, tôi đã bị từ chối ít nhất 30 lần trước khi có khách hàng đầu tiên. Bạn phải xem chuyện bị khách hàng từ chối là chuyện... bình thường. Việc cần làm là mỗi khi bị từ chối, chúng ta phải tìm hiểu vì sao mình bị từ chối để không lặp lại điều này trong lần tiếp cận khách hàng tiếp theo.
Để có thể trở thành một doanh nhân, bạn cũng phải xác định sẽ luôn đối mặt với rất nhiều tin xấu, nó có thể đến từ mọi phía: nhà đầu tư, nhân viên, khách hàng... Nếu để cảm xúc chi phối, bạn sẽ không những tốn thời gian, không giải quyết được việc, mà còn không học được bất cứ bài học kinh nghiệm nào.
4. Thái độ phù hợp
Trong giới trẻ hiện nay có hiện tượng chê bai những người giỏi hơn mình; xem thường trí tuệ, tài năng của người khác; vào hùa “dìm hàng” một người thậm chí mình chưa gặp bao giờ chỉ vì ganh với họ. Bạn sẽ không thể tiến bộ được nếu thuộc típ người này.
Khi đón nhận sự kiện xảy đến với mình bằng thái độ tích cực, bạn sẽ học được những điều tưởng chừng như nhỏ nhặt và không đáng quan tâm nhưng lại cực kỳ đắt giá.
Khiêm tốn là một loại dưỡng chất tốt để nuôi dưỡng tâm hồn khỏe mạnh. Khiêm tốn giúp người ta chống lại cám dỗ vật chất, thói háo danh, thói khoe mẽ, khoác lác vốn đang là một “căn bệnh ung thư” của người Việt.
5. Thông thạo ít nhất một ngoại ngữ
Thế giới càng lúc càng phẳng, vì vậy nếu bạn không biết ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, thì cơ hội nghề nghiệp của bạn sẽ bị hạn chế.
Học thêm một ngoại ngữ giống như tập thể dục. Để có được cơ bắp, chúng ta phải luyện tập hằng ngày. Khi bạn học tiếng Anh, mỗi ngày nên dành tối thiểu 5 phút để rèn luyện, biến nó thành công cụ để phát triển nghề nghiệp.
Người sử dụng tiếng Anh một cách thành thạo sẽ tự tin hơn. Theo một khảo sát, một người biết tiếng Anh có thu nhập nhiều hơn 30% so với người cùng vị trí không biết tiếng Anh.
6. Đọc sách hằng ngày
Lượng đọc trung bình của người Việt là khoảng một quyển sách mỗi năm, theo ông Lê Hoàng- Phó chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam chia sẻ tại Đường sách TP.HCM. Một người Việt Nam chi 40.000 đồng mỗi năm để mua sách, trong khi một người Trung Quốc chi 200.000, còn ở các nước phát triển thì bình quân mỗi người chi 4 triệu đồng mua sách hằng năm.
Đọc sách là cách chúng ta thu lượm được kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và trải nghiệm từ những người đi trước một cách miễn phí. Đọc sách nhiều sẽ mang lại vốn hiểu biết sâu rộng phục vụ rất tốt cho nghề nghiệp và đời sống của chúng ta, giúp tư duy, nhận thức của bạn ngày càng sâu sắc hơn, trưởng thành hơn. Điều đó sẽ giúp chúng ta tự tin hơn vào bản thân trong quá trình giao tiếp, chủ động ứng xử, giải quyết những tình huống xảy ra trong cuộc sống.
7. Giữ lời hứa
Người trẻ nhất thiết phải bỏ ngay tình trạng “giờ dây thun”. Hãy luôn cố gắng đến sớm 15 phút trong tất cả mọi cuộc họp hoặc gặp gỡ, trừ những trường hợp bất khả kháng.
Một khi đã hứa với ai điều gì, bạn nên tập trung làm thật tốt để có thể thực hiện lời hứa mình một cách tốt nhất. Tôi từng hứa và giúp một bác Việt kiều Pháp xây dựng đội ngũ và giấy tờ tại Việt Nam trong giai đoạn đầu. Tôi đã làm hết sức có thể mà không mong đợi bác đó sẽ hỗ trợ gì cả. Nhưng sau đó, chính nhờ bác mà tôi được gặp được nhiều đối tác lớn.
Chữ tín là điều chúng ta cần luôn luôn giữ.
Theo doanhnhanonline
 
BÀI HÁT THANH NIÊN

Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 08 tháng 9/2017, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên lời bài hát “Lời Bác dạy thanh niên”
Lời Bác dạy thanh niên
Tác giả: Trịnh Đình Lập
Đâu cần thanh niên có đâu khó có thanh niên
Là thanh niên ta luôn luôn đi đầu dù gian lao hay nắng mưa chặn lối.
Ta vẫn cứ tiến ta vẫn cứ tiến để mai sau quê mình đẹp giàu và vươn lên để năm châu ca ngợi Việt Nam.
Đâu cần thanh niên có đâu khó có thanh niên ngày xưa ông cha ta xây dựng ngày hôm nay con cháu lo gìn giữ.
Tô đẹp đất nước tô đẹp đất nước tiến lên mau cho kịp bạn bè và ngày mai khắp năm châu ca ngợi Việt Nam.
 
 
 
 
 
 

([1]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, tập 5, trang 312- 313
([2]) (2’)  Hồ Chí Minh, Sđd, tập 6, trang 353
([3]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 6, trang 373
([4]) (4’) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 7, trang 200
([5]) (5’)  Hồ Chí Minh: Sđd, tập 7, trang 229
([6]) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, trang 125
 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Thăm dò ý kiến

Website của tuổi trẻ Thăng Bình thế nào?

standee trai
standee ben trai