TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN THÁNG 7-8-9/2018

Thứ năm - 05/07/2018 21:43
CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 71 NĂM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SỸ VIỆT NAM (27/7/1947-27/7/2018
   HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH
HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng Hồ Chí Minh với thương binh, liệt sỹ vẫn luôn là bài học quý giá

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc đối với thương binh, gia đình liệt sỹ. Tình thương bao la ấy của Người là bài học vô cùng quý giá, trường tồn với thời gian.
Trong cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho đất nước của Nhân dân ta, có biết bao nhiêu chiến sỹ cộng sản, quần chúng yêu nước đã ngã xuống, hy sinh nơi chiến trường khốc liệt để xây nên giang sơn gấm vóc hôm nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Máu đào của các liệt sỹ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của liệt sỹ đã làm cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sỹ…” Chiến tranh kết thúc, có những người con đã trở về từ trận tuyến, nhưng cũng có không ít những người mãi mãi ra đi, lại có những người đã để lại một phần máu thịt của mình - các anh trở về với những thương tật trên cơ thể vì lý tưởng cách mạng cao đẹp.
Tháng 6/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm làm “Ngày thương binh” để Nhân dân ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh, gia đình liệt sỹ và những người có công với đất nước. Thực hiện chỉ thị của Người, Hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, ban, ngành ở trung ương và địa phương đã họp ở xã Phú Minh (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) bàn bạc, nhất trí đề nghị lấy ngày 27/7/1947 làm “Ngày thương binh, liệt sỹ”. Từ đó, ngày 27/7 hàng năm trở thành “Ngày thương binh, liệt sỹ” trong cả nước.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến thương binh, liệt sỹ - những người đã cống hiến xương máu, hy sinh tính mạng của mình để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho Nhân dân. Dù bận trăm công nghìn việc nhưng Người vẫn luôn dành thời gian để quan tâm, thăm hỏi, động viên các đồng chí thương binh, liệt sỹ cùng gia đình họ. Nội dung tư tưởng, những tình cảm thiêng liêng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho thương binh, liệt sỹ được thể hiện một cách nhất quán, xuyên suốt, cụ thể, thiết thực trong rất nhiều bài nói, bài viết, trong hành động và việc làm của Người.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác thương binh, liệt sỹ là một hình thức xây dựng “tượng đài kỷ niệm” trong lòng dân chúng để các thế hệ kế tiếp ghi nhớ công ơn, chiến công của những con người ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc và cuộc sống yên bình của Nhân dân. Tư tưởng này được thể hiện rõ nhất trong các bức thư Hồ Chí Minh viết nhân dịp ngày 27/7. Trong lá thư đầu tiên, Người nhấn mạnh đến mục đích cao cả này với những lời thống thiết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sỹ mà nay một số thành ra thương binh.
Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”
Từ những rung động sâu sắc tận đáy lòng, thương tiếc và trân trọng, Người đi đến một quan niệm khái quát về thương binh, liệt sỹ. Đó là những người “quyết hy sinh tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh của đồng bào. Họ hy sinh gia đình và tài sản của họ để bảo vệ gia đình và tài sản của đồng bào.
Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống.
Họ là những chiến sỹ anh dũng của ta.
Trong đó, có người đã bỏ lại một phần thân thể ở trước mặt trận. Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là những thương binh, đó là tử sỹ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá chính xác ý nghĩa và giá trị của sự hy sinh vì độc lập, tự do của các chiến sỹ. Người nâng công tác thương binh, liệt sỹ lên ngang tầm một hoạt động văn hóa, như là một sự kế tục, ở quy mô toàn xã hội, truyền thống nhân nghĩa “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, “ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc Việt Nam.
Đặc trưng nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thương binh, liệt sỹ là chủ nghĩa nhân văn mà cốt lõi là lòng thương người. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, lòng thương người phát triển với mức độ cao; nó đồng nghĩa với việc thực hiện các quyền cơ bản về sự phát triển toàn diện của con người. Từ lòng yêu thương những người nghèo khổ ở quê hương, những người đi phu làm đường Cửa Rào (Nghệ An) bị đánh đập, đói khát, đồng bào bị áp bức, bóc lột, Nguyễn Ái Quốc mở rộng đến sự thông cảm, yêu thương tất cả Nhân dân lao động trên thế giới, kính trọng những người dũng cảm hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình. Người đã khóc khi nghe tin Thị trưởng Cóoc - một nhà yêu nước Ai-xơ-len bị bắt cầm tù đã tuyệt thực đến chết và nghĩ đến tấm gương hy sinh của nhà yêu nước Việt Nam Tống Duy Tân “thà chết không đầu hàng”. Từ đó, Người đi đến nhận thức rằng, cái chết của họ làm cho Tổ quốc họ sống lại, lòng can đảm của họ bất diệt.
Lòng thương người gắn với lòng kính yêu thương binh, liệt sỹ quyện chặt vào nhau, nâng cao ý thức giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng của đất nước, dân tộc. Không phải sự mất mát nào cũng làm chúng ta kính trọng, học tập, dù có thương cảm, mủi lòng, ngoại trừ hy sinh cho đất nước, làm cho cuộc sống hiện tại và tương lai mãi mãi tồn tại và phát triển. Đó là những cái chết làm nên sự sống và trở thành bất tử. Tình cảm thân thiết, tình nghĩa đồng chí, đồng đội được cô đọng, thể hiện trong “Bài điếu đồng chí Hồ Tùng Mậu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 01/8/1951: “Tôi với chú là đồng chí, lại là thân thiết hơn anh em ruột. Khi hoạt động ở đất khách quê người, khi bị giam ở lao tù đế quốc, khi đấu tranh ở nước nhà, hơn 25 năm, đã bao phen chúng ta đồng cam cộng khổ, như tay với chân... Mất chú, đồng bào mất một người lãnh đạo tận tụy, Chính phủ mất một người cán bộ lão luyện, Đoàn thể mất một người đồng chí trung thành và tôi mất một người anh em chí thiết. Mấy nguồn thương tiếc, cộng vào trong một lòng tôi!”. Tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thương binh, liệt sỹ không chỉ là sự tiếc thương, ngậm ngùi, đau xót và tự hào, mà còn gợi lên tinh thần bất khuất, làm hồi sinh sức sống mãnh liệt của cả dân tộc, của những người hy sinh, cống hiến một phần cơ thể của mình cho đất nước. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta nhận thấy rằng, Người đã làm cho sự hy sinh, mất mát của liệt sỹ, thương binh, gia đình, dân tộc càng thêm cao đẹp hơn bằng cách gắn sự tổn thất này vào ý thức của những người còn sống về nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với những người đã hy sinh, những mất mát của những người đã chiến đấu và gia đình họ. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho những điều vinh quang càng vinh quang và đáng tự hào hơn, trách nhiệm của những người còn sống, trách nhiệm của các gia đình và Nhân dân càng nặng nề hơn.
Chính vì thế, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giúp đỡ thương binh không mang ý nghĩa nhất thời, về lâu dài, cơ bản và quyết định là tạo mọi điều kiện cho họ có khả năng hòa nhập tự nhiên, thích nghi với đời sống cộng đồng, có công cụ để hoạt động phù hợp với khả năng từng đối tượng, bảo đảm cuộc sống cho họ và gia đình. Ngoài những việc làm nghĩa cử của bản thân, đối với thương binh, liệt sỹ, Người cũng nhấn mạnh: Để phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” trở thành một phong trào có sức lan tỏa sâu rộng trong thực tiễn, có hiệu quả và thiết thực, toàn Đảng, toàn dân phải vinh danh, ghi nhận công lao to lớn của thương binh, liệt sỹ và làm tốt hơn nữa công tác “Đền ơn đáp nghĩa”. Nhiều tổ chức hội như “Hội mẹ chiến sỹ”, “Hội ủng hộ thương binh”,… được thành lập; nhiều phong trào như “Phong trào Trần Quốc Toản”, “Đón thương binh về làng”,… được phát động rộng rãi, góp phần cùng Đảng và Nhà nước chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, thắt chặt thêm tình quân dân như “cá với nước”.
Trước lúc đi xa, trong Di chúc thiêng liêng của Người, Bác Hồ của chúng ta đã căn dặn biết bao điều hệ trọng về công tác lao động - thương binh và xã hội: “Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào ta phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sỹ, thì mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho Nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sỹ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.
Hơn hết, trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác thương binh, liệt sỹ là một loại chính sách xã hội đặc biệt, thu hút sự tham gia của mọi đối tượng dân cư, mọi ngành, mọi giới; không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là tình cảm, lương tri sống ở đời và làm người, nói lên bản chất ưu việt của chế độ xã hội, nét đẹp văn hóa ứng xử, đạo lý sống của người Việt Nam. Trong các lực lượng xã hội tham gia làm công tác thương binh, liệt sỹ, Đảng Cộng sản phải là người khởi xướng, lãnh đạo thông qua hệ thống các chủ trương, đường lối và chính sách.
Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người tích cực đi đầu thực hiện công tác thương binh, liệt sỹ. Ngay từ tháng 11/1946, Người đã ra thông báo về việc nhận con các liệt sỹ làm con nuôi, hàng năm đều có thư thăm hỏi động viên, khuyến khích thương binh, gia đình liệt sỹ. Trong vòng 22 năm (1947 - 1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 14 lần gửi quà, tiền nhân ngày thương binh, liệt sỹ. Quà tặng thường là những đồ dùng thiết yếu (quần áo, khăn mặt, vải, thuốc men, chăn...) và tiết kiệm tiền lương gửi vào quỹ thương binh toàn quốc. Việc làm của Người vừa thiết thực, vừa tạo thành một phong trào xã hội rộng lớn với nhiều hình thức phong phú và vô cùng cảm động đã thu hút đông đảo các tầng lớp Nhân dân tham gia.
Hàng năm, đều đặn cứ vào dịp tháng 7, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sỹ, một mặt khẳng định công lao, đóng góp của họ, một mặt động viên họ: “Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương, cũng như các đồng chí đã từng là chiến sỹ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận”, để mỗi “thương binh tàn nhưng không phế”.
Trong mọi hoàn cảnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh: Giúp thương binh lâu dài, chứ không phải chỉ giúp trong một thời gian. Không phải giúp bằng cách góp gạo nuôi thương binh, những biện pháp hỗ trợ trước mắt mà bằng cả một hệ thống giải pháp căn cơ, lâu dài, trên mọi phương diện, từ việc làm đến thu nhập, từ việc học đến đào tạo nghề, từ giúp đỡ, hỗ trợ của tập thể đến phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi cá nhân…
Những quan điểm cơ bản và tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác thương binh, liệt sỹ đã được Đảng và Chính phủ ta vận dụng, kế thừa, phát huy và cụ thể hóa thành nhiều chương trình, chính sách giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sỹ hiện nay. Trong suốt 70 năm qua, phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” và lời căn dặn của Người, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến các đối tượng thương binh, thân nhân gia đình liệt sỹ. Các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” ngày càng đi vào chiều sâu và xã hội hóa cao. Các phong trào xây dựng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa, Quỹ đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm sóc con liệt sỹ mồ côi, đi tìm hài cốt đồng đội, tu sửa, nâng cấp các nghĩa trang, đài tưởng niệm liệt sỹ,... ngày càng thu hút sự tham gia của toàn xã hội trong phạm vi cả nước, đều bắt nguồn từ bản chất tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Nguồn: tapchicongsan.org.vn
DI TÍCH LỊCH SỬ TẠI THĂNG BÌNH
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số 7/2018, chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn đoàn viên thanh niên, các tổ chức Đoàn về Di tích lịch sử “Địa điểm cơ sở cách mạng nhà ông Phan Tựu”  .
Địa điểm di tích nằm tại Tổ 11, thôn 3, xã Bình Dương, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng
Nam.
Nhà ông Phan Tựu là một trong những nơi được lãnh đạo huyện Thăng Bình và xã Bình Dương chọn làm cơ sở bí mật để lãnh đạo tỉnh, huyện và xã trú ẩn, tổ chức và lãnh đạo phong trào cách mạng trong những năm 1954 – 1970. Nhà ông Phan Tựu tại thôn 3, xã Bình Dương, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, được xây dựng từ năm 1940, nguyên là nhà rường gỗ 5 gian 2 chái lợp ngói theo kiến trúc nhà cổ Việt Nam trong khu vườn rất rộng và đẹp. Tháng 8 năm 1954, tại ngôi nhà này các đồng chí Phan Thảng – Chủ tịch hành chính kháng chiến của xã, Dương Tuận, Phan Dương, Phan Đinh, Nguyễn Nghệ, Phan Côn, Phan Bình …tụ họp để bàn việc tập kết các cán bộ đảng viên xã nhà và những đồng chí này là những người được Đảng cử đi miền Bắc tập kết bằng đường biển vào Quy Nhơn để thi hành hiệp định Giơnevơ. Do có chỉ điểm nên bọn Ngụy quyền đã cho cả trung đội lính tiến hành vây ráp cán bộ của ta và đã nổ súng truy tìm, nhưng được sự đấu tranh và giải cứu kịp thời của bà con hàng xóm, nên nhiều người lẫn trốn trên xối nhà và sau đó trốn thoát ra biển vào Quy Nhơn để tập kết, không ai bị địch bắt. 
Tại đây, vào năm 1964 đã diễn ra các cuộc họp bàn và phát lệnh khởi nghĩa giải phóng vùng Đông lần thứ nhất vào ngày 05.5.1964 và khởi nghĩa giải phóng vùng Đông lần thứ hai ngày 05.9.1964.
Từ năm 1964 đến cuối năm 1970, nơi đây được chọn làm trung tâm chỉ huy, hội họp của tỉnh Quảng
Nam, huyện Thăng Bình, thị xã Hội An, các đơn vị chủ lực của tỉnh, bộ đội địa phương và là nơi đặt trạm phẫu địa phương của Ban Dân y Khu V…
Từ cuối năm 1965 đến năm 1967, cơ quan Huyện ủy Thăng Bình đóng tại nhà ông Phan Tựu để chỉ đạo phong trào cách mạng vùng Đông. Đặc biệt, tại đây vào tháng 7 năm 1967 Hội nghị Huyện ủy Thăng Bình được tổ chức với hơn 60 đại biểu tham dự. Hội nghị đã quyết định nhiệm vụ “….Phải ra sức tăng cường xây dựng thực lực đấu tranh, giữ vững vùng giải phóng, chuẩn bị mọi mặt để phối hợp với chiến trường đẩy mạnh hoạt động giành thắng lợi to lớn hơn nữa”. Hội nghị đã bầu bổ sung Ban Chấp hành Đảng bộ huyện….Nhà ông Phan Tựu là một trong những cơ sở cách mạng tiêu biểu của huyện góp phần vào sự thành công của công cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, giải phóng dân tộc. Nơi đây ghi nhiều dấu ấn gắn với phong trào cách mạng của xã trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là cơ sở hoạt động mật, trụ sở chỉ huy, nơi hội họp của Đảng và cách mạng, đặc biệt là nơi Huyện ủy tổ chức Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ lần thứ 7. 
Nhân dân Thăng Bình tự hào có những đảng viên, cán bộ tiêu biểu đã hy sinh oanh liệt như Lê Quang Cảnh, Trương Thị Xáng, Lâm Hoàng Diệu, Nguyễn Suyền, Nguyễn Tùng, Trương Thúc Thành, ... và cũng đầy lòng biết ơn những gia đình có công với cách mạng như bà Hưỡn, ông Phan Tựu, bà Lức, Bà Chương...
Năm 1975, kháng chiến thắng lợi, đất nước hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối, trong sự đóng góp chung, không thể không kể đến những đóng góp của gia đình ông Phan Tựu.

Di tích lịch sử “Địa điểm cơ sở cách mạng nhà ông Phan Tựu” được UBND tỉnh Quảng
Nam công nhận là di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 954/QĐ-UBND, ngày 27.3.2013.
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Thăng Bình
THEO DÒNG LỊCH SỬ
Những ngày đáng nhớ trong tháng 7:
- 02/7/1976: Kỷ niệm Ngày nước ta đổi quốc hiệu từ Việt Nam Dân chủ cộng hòa thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- 11/7: Kỷ niệm ngày Dân số thế giới.
- 15/7/1950: Kỷ niệm Ngày truyền thống thanh niên xung phong.
- 17/7/1966: Ngày Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
- 20/7/1954: Ngày ký hiệp định Giơnevơ.
- 27/7/1947: Kỷ niệm Ngày thương binh, liệt sỹ Việt Nam.
- 28/7/1929: Kỷ niệm Ngày thành lập công đoàn Việt Nam.
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH MỚI
Thông tin Quy định mới về chế độ thai sản năm 2018
Từ ngày 01/7/2018, sẽ tăng mức hưởng đối với một số chế độ thai sản dành cho lao động nữ có tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Cụ thể như sau:
1. Tăng mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau
Mức hưởng hiện hành Mức hưởng kể từ ngày 01/7/2018
390.000 đồng/ngày 417.000 đồng/ngày
2. Tăng trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi
Mức hưởng hiện hành Mức hưởng kể từ ngày 01/7/2018
2.600.000 đồng 2.780.000 đồng/ngày
Việc tăng này nhằm phù hợp với chính sách tăng lương cơ sở từ 1.300.000 đồng/tháng lên 1.390.000 đồng/tháng kể từ ngày 01/7/2018.
Nội dung nêu trên được căn cứ vào các quy định pháp luật sau đây:
- Khoản 7 Điều 3 Nghị quyết 49/2017/QH14 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2018.
- Khoản 2 Điều 3 Nghị định 47/2017/NĐ-CP quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.
- Khoản 2 Điều 29 và Điều 38 Luật bảo hiểm xã hội 2014.
Nguồn:thuvienphapluat.vn
SỔ TAY NGHIỆP VỤ
“Làm thế nào để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi đoàn
Có một thực tế đang đặt ra với công tác Đoàn đó là chất lượng hoạt động đoàn ở một số cơ ở đoàn còn thấp, chưa thu hút được đoàn viên thanh niên tham gia. Nguyên nhân chính vẫn là thiếu tính hấp dẫn trong nội dung và hình thức sinh hoạt chi đoàn.
 Vì vậy, đẩy mạnh chất lượng đoàn từ cấp cơ sở đang được các cấp bộ Đoàn quan tâm, trong đó đề cao hiệu quả sinh hoạt chi đoàn. Vậy để làm tốt một buổi sinh hoạt chi đoàn, chúng ta cần phải làm gì và làm như thế nào?
Thực trạng hoạt động của cấp chi đoàn có chiều hướng giảm sút, có thể thấy được 3 nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trên đó là: Tại các chi đoàn không duy trì chế độ sinh hoạt Đoàn thường xuyên, các buổi sinh hoạt chi đoàn thường khô khan, thiếu hấp dẫn và cuối cùng là đội ngũ cán bộ Đoàn còn lúng túng về nội dung và hình thức sinh hoạt, từ những yếu tố trên dẫn đến các buổi sinh hoạt chi đoàn có ít thanh niên tham gia. Do đó để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi đoàn cũng như coi đây là nền tảng trong việc đoàn kết tập hợp thanh niên thì mỗi cấp bộ Đoàn cần hiểu và phân biệt rõ những điều cơ bản trong sinh hoạt chi đoàn, phải biết thế nào là sinh hoạt chi đoàn và sinh hoạt chi đoàn để làm gì?
Thực tế cho thấy, tại các chi đoàn thường bị nhầm lẫn giữa họp chi đoàn và sinh hoạt chi đoàn từ đó dẫn đến cách thức và hình thức tổ chức  buổi sinh hoạt chi đoàn thường khô khan, thiếu hấp dẫn. Có thể hiểu sinh hoạt chi đoàn là một hình thức tập hợp đoàn viên thanh niên qua đó thảo luận và quyết định các chủ trương, chương trình công tác Đoàn của đơn vị. Tuy nhiên cách hiểu này chưa toàn diện mà chỉ phù hợp nội dung sinh hoạt để phổ biến công tác và phổ biến đánh giá hoạt động hàng tháng, nếu cứ tiến hành thường xuyên theo cách trên sẽ dẫn đến sự nhàm chán. Hoặc có thể hiểu sinh hoạt chi đoàn theo một ý nghĩa khác, đó là một buổi sinh hoạt về chính trị, thời sự, văn hóa văn nghệ, khoa học, kỹ thuật, chuyên môn nhằm mục đích giáo dục của chi đoàn. Cách hiểu này phù hợp với tình hình hiện nay khi chúng ta chủ trương đa dạng hóa các loại hình hoạt động của đoàn viên thanh niên.
Đối với họp chi đoàn, thường chỉ có đoàn viên của đơn vị để góp ý, thảo luận các nội dung trước khi đưa ra sinh hoạt chi đoàn trước toàn thể đoàn viên thanh niên cùng cấp uỷ, Đoàn cấp trên. Chính từ sự nhầm lẫn trên nên tính phong phú, đa dạng tại các chi đoàn chưa có, dẫn đến không tập hợp được thanh niên tham gia vào tổ chức Đoàn.

Vậy sinh hoạt chi đoàn để làm gì và như thế nào?
Khi tổ chức một buổi sinh hoạt chi đoàn, BCH chi đoàn cần phải giải quyết 3 vấn đề sau: Một là giải quyết những yêu cầu của xã hội; Hai là phải đáp ứng được những nhu cầu nội tại của bản thân tổ chức Đoàn như công tác xây dựng Đảng, Đoàn; Ba là phải áp dụng được những nhu cầu đoàn viên thanh niên trong chi đoàn. Sau khi nắm vững những điều trên thì chúng ta mới đi sâu vào nội dung hình thức sinh hoạt chi đoàn sao cho phù hợp.
Để nội dung sinh hoạt chi đoàn thiết thực, thực sự thu hút đoàn viên thanh niên, khi chuẩn bị sinh hoạt BCH chi đoàn cũng cần căn cứ vào 3 nội dung chủ yếu sau:
- Thứ nhất: Sinh hoạt chi đoàn theo chủ đề.
- Thứ hai: Sinh hoạt chi đoàn theo chương trình công tác của tháng, quý.
- Thứ ba: Sinh hoạt chi đoàn để nâng cao tính chiến đấu của tổ chức Đoàn.
Song, đối với thanh niên cần phải đa dạng hóa hình thức nhưng để đảm bảo chất lượng và hiệu quả thì các chi đoàn cũng cần phải tuân theo các bước trên để có thể đảm bảo đầy đủ nội dung trong một buổi sinh hoạt chi đoàn.
Bên cạnh việc đảm bảo nội dung thì các chi đoàn cũng cần đa dạng hóa hình thức sinh hoạt sao cho phù hợp, thu hút đông đảo thanh niên tham gia vào tổ chức. Hầu hết các chi đoàn đều tổ chức sinh hoạt tại nhà văn hóa của thôn, ấp - chính vì điều này cũng làm hạn chế về hình thức sinh hoạt. Có thể nhận thấy rằng, nếu chỉ tổ chức trong một không gian bó hẹp sẽ hạn chế sự năng động của thanh niên. Hình thức sinh hoạt rất đa dạng tuy nhiên để thực hiện được điều này đòi hỏi sự năng động của đội ngũ cán bộ Đoàn. Có thể tổ chức sinh hoạt chi đoàn tại các khu di tích, trong những thời gian nghỉ ngơi của một buổi lao động hoặc có thể nhân dịp sinh nhật của đoàn viên kết hợp tổ chức sinh hoạt nhưng phải đảm bảo sự nhẹ nhàng, thoải mái. Ngoài ra tuỳ vào mỗi điều kiện tại từng địa phương có thể tổ chức sinh hoạt chi đoàn luân phiên tại nhà của các đoàn viên. Trên cơ sở sự linh động đó, chúng ta linh động cả về hình thức sinh hoạt không nhất thiết cứ phải cứng nhắc theo trình tự mà hãy làm nhẹ để làm sao khi đi sinh hoạt đoàn viên thanh niên có cảm giác thích thú, phấn khởi mỗi khi được mời tham gia sinh hoạt tại chi đoàn. Đặc biệt trong sinh hoạt chi đoàn cũng không thể thiếu hoạt động văn nghệ, trò chơi để tạo bầu không khí sôi nổi qua đó xen kẽ những nội dung cần truyền đạt đến đoàn viên thanh niên.
Để chất lượng công tác Đoàn ở cơ sở ngày một vững mạnh, nhất thiết hoạt động tại các chi đoàn cần có sự đồng bộ về cách thức tổ chức và hoạt động, do đó mỗi chi đoàn cũng cần nâng cao chất lượng trong mỗi buổi sinh hoạt chi đoàn, tạo nền tảng và tính hấp dẫn để đoàn kết tập hợp thanh niên vào tổ chức Đoàn - Hội ngày một đông hơn.
                                                                             Nguồn:tuoitreboxaydung.vn
MÔ HÌNH- KINH NGHIỆM

Anh Nguyễn Thanh Quốc, thanh niên làm kinh tế giỏi cư ngụ thôn Suối Đá

(xã Lợi Hải, huyện Thuận Bắc)

 
Bằng ý chí, quyết tâm làm giàu, ở độ tuổi 30, anh Nguyễn Thanh Quốc cư ngụ thôn Suối Đá (xã Lợi Hải, huyện Thuận Bắc) đã làm chủ một trang trại có quy mô diện tích hơn 2 ha. Trong quá trình xây dựng, anh Thanh Quốc luôn tìm tòi, học hỏi, áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi nên trang trại của anh ngày càng phát triển và mở rộng.
Lúc đầu đàn gia súc anh nuôi có số lượng ít, chăn thả tự nhiên, không đạt chất lượng. Năm 2016, anh quyết tâm xây dựng trang trại theo mô hình vườn-ao-chuồng. Nhờ có ít kinh nghiệm chăn nuôi, học hỏi thêm, có được mảnh đất của gia đình cho, cùng với số vốn tích góp được, vay thêm người thân, bạn bè được 800 triệu đồng, anh mạnh dạn mở trang trại. Trong đó anh trồng 1,5 ha các loại cỏ xen canh chuối để chủ động nguồn thức ăn cho đàn gia súc; diện tích còn lại anh xây dựng chuồng heo, cừu, dê, bò, gà, đào ao thả cá và nuôi giun quế. Thời gian đầu, trang trại của anh có khoảng 10 con bò, hơn 100 con cừu, 100 con dê và 500 con gà.
Thực hiện quy trình sản xuất khép kín, ngoài cỏ, thân cây chuối, anh mua thêm bã mía làm thức ăn cho gia súc, sau đó lấy phân của gia súc nuôi giun quế, cá; dùng giun và cá trộn cùng với cỏ, bã mía, chuối làm thức ăn đàn gia súc… Bằng phương thức này, anh tiết kiệm hơn 60% kinh phí thức ăn so với cách nuôi thông thường. Để hạn chế dịch bệnh trên đàn gia súc, anh đầu tư làm hệ thống uống nước tự động; thường xuyên chăm sóc, kiểm tra tình hình dịch bệnh trên vật nuôi. Anh chia sẻ: Lúc mới thành lập, tôi gặp rất nhiều khó khăn về thức ăn cho đàn gia súc, thị trường tiêu thụ. Nhưng dần dần qua phương tiện truyền thông, tôi vừa làm, vừa học hỏi và tìm được nơi tiêu thụ sản phẩm tốt trong tỉnh và các tỉnh miền Tây. Nhờ quy trình chăn nuôi trên, đàn gia súc của anh phát triển khá tốt, giá cả ổn định, anh có được thành công bước đầu. Để sản phẩm của mình được biết đến rộng rãi, anh thành lập website giới thiệu, hướng dẫn cách nuôi gia súc, kỹ thuật trồng cỏ cho khách hàng tham khảo, nắm bắt.
Để nâng chất lượng đàn gia súc, anh mua nhiều giống cừu, dê khác nhau về nuôi, gây giống và trồng các giống cỏ mới… Đến nay, trang trại của anh có hơn 20 con bò, 60 con heo đen và heo lai rừng, 250 con cừu, 300 con dê, 2.000 con gà. Mỗi năm anh xuất chuồng bán gia súc, gia cầm thu nhập bình quân từ 400-500 triệu đồng/năm. Trang trại anh là một trong những cơ sở kinh doanh lớn của địa phương, chuyên cung cấp thịt và giống bò, dê, cừu. Song song với làm giàu cho bản thân, anh còn hỗ trợ người dân trong thôn con giống sản xuất. Cụ thể, anh hỗ trợ 100% giống cho người dân nuôi, đến khi xuất chuồng, sẽ chia cho trang trại của anh theo tỷ lệ 6/4, hiện có 8 hộ nghèo tham gia và đang có thêm thu nhập từ phương thức làm ăn này. Theo anh Thanh Quốc, trong thời gian tới anh sẽ tiếp tục mở rộng diện tích trồng cỏ lấy thức ăn cho đàn gia súc và phấn đấu cung cấp ra thị trường nhiều sản phẩm thịt cũng như con giống chất lượng hơn.
Ông Võ Ngọc Phương, Phó Chủ tịch UBND xã Lợi Hải cho biết: Anh Quốc là một gương thanh niên làm kinh tế giỏi điển hình của xã. Anh đã xây dựng cho mình lộ trình phát triển sản xuất chuyên nghiệp, bài bản nên đã gặt hái được thành công bước đầu. Đáng hoan nghênh hơn anh còn giúp đỡ các hộ nghèo có giống gia súc chăn nuôi để phát triển kinh tế gia đình.
Nguồn:Báo điện tử Nhân dân
CÂU CHUYỆN ĐẸP
Những câu chuyện về việc làm tử tế
Trong cuộc sống hối hả với những toan tính, bon chen vẫn xuất hiện nhiều việc làm tử tế. Và có lẽ để xã hội hướng nhiều hơn đến việc làm ý nghĩa nhân văn và cũng là nhắc nhở mọi người cần làm nhiều việc tử tế để góp phần giáo dục thế hệ trẻ, trong chương trình Chuyển động 24h mỗi ngày của Đài Truyền hình Việt Nam đã dành một chuyên mục giới thiệu “việc tử tế”. Nếu bạn quan tâm đến cộng đồng, xã hội thì bạn sẽ thấy xã hội còn có rất nhiều người đã làm việc tử tế đáng trân trọng và nêu gương.
Có một điểm chung của tất cả những nhân vật trong bài viết là họ muốn lặng lẽ làm việc có ích cho đời, không muốn “lên báo” hoặc nêu tên vì họ cho rằng những việc đó là bình thường, không đáng kể. Nhưng việc tử tế ấy, dù chỉ là một phần những gì tác giả bài viết biết đến, cũng rất đáng trân trọng và nhân rộng trong xã hội.

BÀ CỤ DÀNH TIỀN TUẤT LIỆT SĨ ĐỂ GIÚP NGƯỜI NGHÈO
Không khó khăn lắm khi tìm đến nhà bà B.T.T, bởi nhiều người dân trong tổ và cán bộ khu phố biết đến do bà làm nhiều việc thiện và hay giúp đỡ người khác. Bà B.T.T hiện đang sống một mình tại khu phố Phú Mỹ, phường Tân Phú (TX. Đồng xoài). Năm nay bà đã bước sang tuổi 80, sức khỏe yếu, nhưng còn khá minh mẫn. Bà được hưởng chế độ trợ cấp vợ liệt sĩ tái giá. Cuộc sống không dư giả, nhưng bà quan niệm “từng trải qua cảnh nghèo khó, bây giờ đỡ hơn nên mình bớt ra một chút để giúp người khác đang gặp khó khăn, bệnh tật. Đây là điều bình thường và nên làm”.
Những năm trước, khi còn khỏe, hàng tháng bà lại đến chùa Quang Minh (TX. Đồng Xoài) khi góp vài trăm ngàn đồng, khi mua bao gạo nhờ xe ôm chở đến để góp thêm vào bếp ăn tình thương của chùa nấu cơm cho bệnh nhân, người nghèo tại Bệnh viện đa khoa tỉnh. Ông Trần Văn Sơn, Trưởng khu phố Phú Mỹ cho biết: Bà cụ thảo lắm! Trong khu phố, trong tổ vận động đóng góp giúp đỡ người nghèo, gia đình khó khăn, hoặc ủng hộ đồng bào bị bão lụt là bà đóng góp, ủng hộ ngay. Những phần quà tết của thị xã, của phường tặng đối tượng chính sách, sau khi nhận bà cũng đem tặng lại các hộ khó khăn trong tổ, xóm.
Cách đây vài tháng, bà tìm đến trao cho chị Bùi Thị Thu Hường, Phó phòng Lao động - thương binh và xã hội thị xã Đồng Xoài 5 triệu đồng. Bà nói rằng, đây là số tiền dành dụm từ tiền tuất liệt sĩ hàng tháng và nhờ phòng mua quà tết tặng cho hộ nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn trong dịp tết Ất Mùi này. Bà còn dặn, nhớ là phần quà nào cũng phải có 10kg gạo. Có thể những việc làm của bà không lớn về vật chất, nhưng nó vô cùng lớn về cách nghĩ, cách làm và mang đầy tính nhân văn.

NGƯỜI NHẶT RÁC HÀNG NGÀY TẠI TƯỢNG ĐÀI CHIẾN THẮNG ĐỒNG XOÀI
Đã gần 1 năm nay, cứ mỗi buổi sáng đi tập thể dục là bà Nguyễn Thị Lan, khu phố Xuân Bình, phường Tân Bình lại mang theo bịch ni-lon để lượm rác trong khuôn viên Tượng đài chiến thắng Đồng Xoài. Mặc dù đã có nhân viên vệ sinh quét dọn thu gom rác, nhưng ở nhiều chỗ khuất vẫn còn rất nhiều rác như vỏ bịch bánh, hộp, túi ni-lon đựng đồ ăn, vỏ chai nước... thậm chí là cả kim tiêm... Bà Lan nói: “Tượng đài là chốn linh thiêng, tôn thờ các anh hùng liệt sĩ mà để rác như thế là rất có lỗi. Trong số các chiến sĩ, anh em hy sinh trận Đồng Xoài năm xưa có rất nhiều người là đồng đội của tôi”.
Vào các dịp lễ, rác nhiều bà Lan đi cả buổi chiều mang theo bao tay để lượm, hốt rác vào bịch. Bà bảo, mới đầu thấy bà lượm rác nhiều người nhìn cho là lẩm cẩm, nhưng dần dần họ nhận ra việc làm ý nghĩa của bà nên cùng phụ lượm, làm sạch khu tượng đài.
Không chỉ gom, lượm rác mà bà còn nhỏ nhẹ nhắc những người đến nghỉ ngơi, hóng mát tại tượng đài, nhất là các cháu thanh, thiếu nhi bỏ rác vào bịch hoặc cho gọn vào một chỗ để người quét rác dễ thu gom...

VIỆC LÀM NHÂN VĂN CỦA NHÓM “HẠT GẠO ẤM LÒNG”
Cái tên Đào Thị Xuân ở ấp 3, xã Tiến Thành có thể đã rất quen thuộc với nhiều người, bởi chị luôn gắn với những việc làm từ thiện, nhân ái. Từ năm 2006 đến nay, chị đã trực tiếp thu nhận, cưu mang, chăm sóc, đưa đi chữa bệnh tại bệnh viện tâm thần và trung tâm bảo trợ xã hội 24 người bị bệnh tâm thần, lang thang, không nơi nương tựa tại Đồng Xoài. Bắt đầu từ năm 2006, dù gia đình chẳng khá giả, nhưng chị đã bớt một phần chi tiêu để hỗ trợ 2 gia đình đặc biệt khó khăn, khánh kiệt vì bệnh tật trong ấp, mỗi tháng 10kg gạo/hộ. 2 phụ nữ của 2 gia đình đã bật khóc vì xúc động trong ngày đầu tiên nhận gạo. Với hoàn cảnh của họ lúc đó, 10kg gạo là quá lớn và vô cùng cần thiết. Từ đó, chị quyết tâm duy trì hỗ trợ gạo đều đặn hàng tháng và còn đưa ra ngày cụ thể trong tháng để nhớ và có trách nhiệm hơn, đồng thời vận động các nhà hảo tâm, doanh nghiệp, mạnh thường quân khác thành lập nhóm “Hạt gạo ấm lòng” để giúp đỡ nhiều hoàn cảnh khó khăn khác. Chị Xuân nói: “Sở dĩ mình đặt tên nhóm là Hạt gạo ấm lòng vì mỗi suất gạo có ý nghĩa rất thiết thực. Nó làm “ấm lòng” cả người được nhận gạo và người giúp đỡ”.
Đến nay, nhóm “Hạt gạo ấm lòng” do chị sáng lập đã có nhiều thành viên tham gia đóng góp, ủng hộ thường xuyên, số gạo hàng tháng lên đến 540kg, giúp 54 hộ. Hiện chị Xuân còn vận động các nhà hảo tâm, nhóm từ thiện mở thêm điểm cấp gạo của nhóm tại các huyện, thị xã Bình Long, Hớn Quản và Bù Gia Mập với mong muốn giúp đỡ được nhiều người nghèo, các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác.

5 NĂM KHÔNG NHẬN TIỀN TRỢ CẤP THƯƠNG BINH ĐỂ GIÚP NGƯỜI NGHÈO
Tại thị xã Đồng Xoài, cái tên Lâm Kiến An được nhiều người biết đến như một “đại gia” ngành xây dựng, cầu đường. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết ông tên đầy đủ là Trần Quốc Lâm, thương binh 2/4 và 5 năm qua đã giao toàn bộ tiền trợ cấp thương binh của mình cho Phòng Lao động - thương binh và xã hội thị xã Đồng Xoài đưa vào quỹ Xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương, quỹ Vì người nghèo của thị xã. Với hơn 128 triệu đồng từ tiền trợ cấp thương binh của ông Lâm, Ban vận động quỹ xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương, quỹ Vì người nghèo thị xã đã dùng hỗ trợ xây 1 căn nhà tình nghĩa, tặng 4 sổ tiết kiệm gia đình chính sách và hỗ trợ xây 5 căn nhà tình thương cho hộ nghèo. Ông nói: “Kinh tế gia đình cũng ổn, trong khi nhiều anh em thương binh, gia đình chính sách khác và nhiều hộ gia đình còn rất khó khăn nên giúp được ai điều gì là mình thấy vui rồi”.
                                    Nguồn: Báo Bình Phước online (đăng bài ngày 07/02/2015)
BÀI HÁT THANH NIÊN
THANH NIÊN VIỆT NAM TIẾN BƯỚC
(Bài hát chính thức Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2017 – 2022)
                     Tác giả: Văn Luân
Nào bạn ơi vai sánh vai cùng nhau tiến bước 
Xây đắp quê hương đẹp tươi muôn sắc hồng 
Tuổi thanh xuân nguyện dâng hiến cho non sông 
Tiến bước cha ông dạng danh dòng máu tiên rồng.

Tuổi trẻ ơi tay nắm tay cùng nhau đi tới 
Tâm trí, sáng trong lòng mang bao khát vọng 
Là thanh niên ngại chi gian khó trên đời 
Chết mãi trong tim tình yêu Tổ quốc sáng ngời. 

Ta mang trong tim khát vọng tuổi xuân 
Những con thuyền vượt xa biển lớn 
Mong sao mai đây đất mẹ Việt Nam 
Thêm đẹp giàu rạng rỡ khắp năm châu.

Vẫn mãi sánh bước với trọn niềm tin 
Mang cho đời niềm vui hạnh phúc 
Sẽ vẫn tiến bước trên chặng đường xa 
Dưới cờ Đoàn nhịp tim mãi sáng ngời


TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN THÁNG 8/2018
CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 73 NĂM NGÀY CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (19/8/1945 – 19/8/2018)
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH
HỒ CHÍ MINH
CHUYÊN ĐỀ
THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ THEO
TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
(Tài liệu dành cho đoàn viên, thanh niên năm 2018 của Ban Bí thư Trung ương Đoàn)
 
Phần thứ nhất
TƯ TƯỞNG VÀ TẤM GƯƠNG MẪU MỰC HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ

Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta, người thầy vĩ đại của cách mạng, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất đã cống hiến trọn đời cho độc lập dân tộc, cho tự do, ấm no, hạnh phúc của Nhân dân Việt Nam và đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của nhân loại.
Hơn nửa thế kỷ hoạt động lý luận và thực tiễn rất phong phú, Người để lại tài sản tinh thần vô giá, mãi mãi soi đường chúng ta phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó chính là tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong kho tàng ấy, những luận điểm của Người về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí vừa có giá trị khoa học, vừa có giá trị thực tiễn và nhân văn sâu sắc, thể hiện phẩm chất đạo đức cao đẹp của con người, phù hợp với truyền thống dân tộc Việt Nam.
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là những phẩm chất cơ bản trong hệ thống quan điểm đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chính Người là tấm gương mẫu mực về thực hành những chuẩn mực đạo đức đó. Trong bối cảnh hiện nay, nhận thức sâu sắc để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí luôn là việc làm có ý nghĩa quan trọng đối với thanh niên trong học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đang trở thành một trong những yêu cầu bức thiết, nhiệm vụ quan trọng, tiêu chuẩn không thể thiếu mà mỗi cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên phải rèn luyện, thực hiện trong công việc cũng như trong cuộc sống hàng ngày.
 1. Một số điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tiết kiệm, thực hành tiết kiệm
Trong Hồ Chí Minh toàn tập (15 tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011), chữ “kiệm” xuất hiện 801 lần, “tiết kiệm” có 595 lần và “thực hành tiết kiệm” là 245 lần. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiết kiệm và thực hành tiết kiệm thể hiện qua các bài viết, bài nói chuyện và ngay chính phong cách của Người, tập trung ở một số điểm chủ yếu sau đây:
1.1. Bản chất của tiết kiệm
Theo Hồ Chí Minh, tiết kiệm là “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”. Người tiết kiệm là phải biết cân đối, tính toán các nguồn lực để chi phí bỏ ra nhỏ nhất mà lại đạt được mục tiêu cao nhất, theo phương châm “1 giờ làm xong việc của 2, 3 giờ. 1 người làm bằng 2, 3 người. 1 đồng dùng bằng 2, 3 đồng”. 
Thực hành tiết kiệm không phải là bủn xỉn, càng không phải là “xem đồng tiền to bằng cái nống”, gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu. Không phải ép mọi người nhịn ăn, nhịn mặc, mà trái lại, cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, để dần dần nâng cao mức sống của Nhân dân; để tích trữ thêm vốn cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, để cải thiện đời sống Nhân dân. Không phải chỉ nước nghèo mới thực hành tiết kiệm, mà cả nước giàu cũng phải tiết kiệm. Bởi vậy, “nói theo lối khoa học, thì tiết kiệm là tích cực, chứ không phải là tiêu cực”.
1.2.  Mục đích tiết kiệm
Theo Hồ Chí Minh, tiết kiệm để phục vụ cho kháng chiến và kiến quốc, tăng thêm tiền vốn xây dựng đất nước, góp phần nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Người căn dặn: “Chúng ta phải chặt chẽ hơn nữa trong việc dùng tiền dành dụm của chúng ta, để tiến nhanh tới cuộc sống no ấm, đầy đủ cho mọi người”. Bởi vậy, nếu khéo tiết kiệm sức người, tiền của và thời gian thì với sức lao động, tiền tài của đất nước có thể tăng gia sản xuất gấp bội mà lực lượng mọi mặt của đất nước cũng tăng gấp bội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng vai trò của tiết kiệm trong tu dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân. Đối với mỗi cá nhân, kiệm là một trong chuỗi phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính”. Đối với cả dân tộc, tiết kiệm là sức mạnh của văn hóa và đạo đức. Bởi vì theo Người, “một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh và tiến bộ”.
1.3. Nội dung tiết kiệm
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tiết kiệm bao gồm nhiều nội dung và ở mọi thời điểm, tất cả mọi người, mọi cơ quan đều phải tiết kiệm.
Tiết kiệm sức lao động, tức phải tổ chức sắp xếp cho khéo, phải nâng cao năng suất lao động, “1 người làm bằng 2,3 người”.
Tiết kiệm thời gian của mình và của người khác. Vì theo Người, “thời giờ tức là tiền bạc”, “một tấc bóng là một thước vàng”. “Ai đưa vàng bạc vứt đi, là người điên rồ. Thì ai đưa thời giờ vứt , là người ngu dại”. Người căn dặn: “Làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ, về sớm. Làm cho chóng, cho chu đáo. Việc ngày nào, nên làm xong ngày ấy, chớ để chờ ngày mai. Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân”.
Tiết kiệm tiền của của Nhà nước, của Nhân dân và của chính mình. Nhưng “khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng”.
Ngoài tiết kiệm sức lao động, thời gian, tiền của thì trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện một số nội dung khác, như tiết kiệm sức dân, tiết kiệm nhân tài, tiết kiệm lời nói…, cụ thể là:
Tiết kiệm sức dân, “phải biết quý trọng sức người là vốn quý nhất của ta. Chúng ta cần hết lòng chăm sóc sức khỏe và sử dụng thật hợp lý sức lao động của nhân dân ta”. Tiết kiệm sức dân còn là tiết kiệm xương máu của bộ đội, chiến sỹ và nhân dân. Người viết: “Của cải hết có thể làm ra, thời gian qua, thời gian lại đến. Nhưng bộ đội hy sinh là hy sinh xương máu. Có khi hy sinh cả tính mệnh” nên “phải giữ gìn từng giọt máu của đồng bào để xây đắp tương lai của Tổ quốc”.
Tiết kiệm lời nói, với các tập thể và cá nhân, phải “nói ít, làm nhiều, chủ yếu là hành động”, “nói thì phải làm”, “nói ít, bắt đầu bằng hành động”. Với các cơ quan đoàn thể, phải hết sức tránh “tình trạng là hội mà không nghị, nghị mà không quyết, quyết rồi mà không làm”.
1.4. Ai cần phải tiết kiệm
Tất cả mọi người, mọi cơ quan đều phải tiết kiệm, trước hết là các cơ quan, bộ đội, các xí nghiệp, cán bộ, đảng viên phải làm gương đi tiên phong. Người viết: “Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã”. Nội dung tiết kiệm phải cụ thể, thiết thực ngay trong cơ quan, đơn vị, vị trí công tác của mình. Tùy thuộc vào công việc cụ thể mà mỗi người, mỗi cơ quan cần thực hành kiệm cho phù hợp. Người căn dặn: “muốn vít kín các lỗ thủng, các kẽ hở, không để của cải dành dụm của chúng ta bị hao hụt, phân tán”, tất cả mọi người đều phải chung sức, đồng lòng thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô.
1.5. Cách thức thực hành tiết kiệm
Theo Người, “thực hành tiết kiệm phải đi đôi với tăng gia sản xuất”. Muốn thực hành tiết kiệm thì toàn Đảng, toàn dân phải ra sức chống lãng phí. Do nguy cơ lãng phí hiện hữu mọi nơi, mọi lúc nên cuộc đấu tranh chống lãng phí phải được tiến hành thường xuyên, triệt để, rộng khắp, có kế hoạch, có tổ chức, có lãnh đạo, có phương pháp. Tuyệt đối không được phát động phong trào rồi “đánh trống bỏ dùi” để tránh sự “nhờn thuốc” và làm nhân dân mất lòng tin vào Đảng và Chính phủ.
Mỗi người cần phải thường xuyên tiến hành tự kiểm điểm công tác thực hành tiết kiệm của mình trên tinh thần tự giác, phải dựa vào quần chúng và phải phát động phong trào thi đua của quần chúng về tiết kiệm; thường xuyên kiểm tra, giám sát, tổng kết kinh nghiệm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của cá nhân và tập thể; nghiêm khắc kỷ luật những kẻ không chịu sửa lỗi dù đã bị nhắc nhở, khen thưởng những người làm tốt và khuyến khích những người đang cố gắng làm tốt.
Tích cực tuyên truyền giải thích để cho mọi người hiểu rõ lợi ích của thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Theo Người, khi quần chúng hiểu rằng, tiết kiệm vì lợi ích của họ, chống lãng phí cũng vì chính bản thân họ, quần chúng nhân dân sẽ tự ý thức mà khinh ghét sự lãng phí. Do vậy, “người yêu nước thì phải thi đua thực hành tiết kiệm”.
(còn tiếp)
Nguồn Ban Tuyên giáo Trung ương Đoàn

DI TÍCH LỊCH SỬ TẠI THĂNG BÌNH
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn Tháng 8/2018, chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn đoàn viên thanh niên, các tổ chức Đoàn về Di tích lịch sử "Căn cứ Lõm Bàu Bính"
Tên gọi Căn cứ lõm ra đời năm 1971 do Đảng bộ, nhân dân xã Bình Dương, Huyện uỷ huyện Thăng Bình, Tỉnh uỷ tỉnh Quảng Nam và một số đơn vị chiến đấu ở Thăng Bình năm 1969 – 1972 đặt tên. Còn tên gọi Bàu Bính có từ bao đời nay không rõ do ai đặt tên. Theo truyền miệng dân gian thì ở địa bàn xã Bình Dương có rất nhiều tên gọi về Bàu: Bàu Bính, Bầu Dừa, Bàu Bàng, Bàu Hoành, Bàu Cầu
Tên gọi Căn cứ lõm ra đời năm 1971 do Đảng bộ, nhân dân xã Bình Dương, Huyện uỷ huyện Thăng Bình,  Tỉnh  uỷ  tỉnh Quảng Nam  và một  số  đơn  vị  chiến  đấu  ở Thăng Bình năm 1969 – 1972 đặt tên. Còn tên gọi Bàu Bính có từ bao đời nay không rõ do ai đặt tên. Theo truyền miệng dân gian thì ở địa bàn xã Bình Dương có rất nhiều tên gọi về Bàu: Bàu Bính, Bầu Dừa, Bàu Bàng, Bàu Hoành, Bàu Cầu, Bàu Nãy…Vậy tên gọi Căn cứ Lõm Bàu Bính được  ra đời  từ năm 1971  (nguyên nhân do cuộc chiến  tranh kháng chiến chống Mỹ). 
Căn  cứ Lõm Bàu Bính  hiện  nay  thuộc  tổ  1,  thôn 4, xã Bình Dương,  huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng
Nam. Từ Thị trấn Hà Lam đi theo đường ĐT 613 về hướng Đông Bắc khoảng 16km là đến cổng  vào  làng  văn  hoá Bàu Bính Thượng,  từ  đây  rẽ  phải  đi  theo đường  bêtông  về hướng Bắc khoảng 1,5km là đến di tích. 
Từ năm 1969 – 1972, đế quốc Mỹ và bọn ngụy quyền  tay  sai  thực hiện  chiến  lược “Việt Nam hoá chiến tranh” dưới chiêu bài là “Bình định” và “Bình định cấp tốc” với sự hỗ trợ đắc lực về quân số và vũ khí của Mỹ đem áp dụng ở chiến trường miền Nam. Ở địa bàn tỉnh Quảng Nam, trong đó có xã Bình Dương, huyện Thăng Bình cũng được bọn chúng áp dụng. Cùng một lúc bọn địch thực hiện 3 thế cuộc chiến tranh: Chiến tranh dành dân; Chiến tranh bóp ngặt; Chiến tranh huỷ diệt. 
Từ 1969 đến 1970 địch tập trung quân chủ lực tổ chức càn quét đánh phá dài ngày ở vùng Đông Thăng Bình, Tam Kỳ…trọng tâm là đánh các xã Bình Dương, Bình Triều, Bình Giang… 

Sau hơn 10 ngày  thực hiện kế hoạch “Bình định cấp  tốc”, nhưng địch vẫn không đạt được mục đích  bởi  chúng  vấp  phải  sự  kháng  cự mãnh  liệt  của  quân  và  dân Thăng Bình, làm cho chúng bị tổn thất nặng nề và bị tiêu hao về quân số, mất nhiều vũ khí. 
Xin nêu một số trận đánh tiêu biểu: Trận đánh bờ Làng Cây Mộc xã Bình Dương diệt 1 tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ; trận đánh  tại đồi gần nhà ông Tôn (thôn 4) diệt 24  tên Mỹ,  trận đánh  tại đồi gần nhà ông Tâm (thôn 1) diệt gần một trung đội quân Đại Hàn, bắn rơi 1 máy bay trực thăng và nhiều trận đánh khác cũng thắng lợi… Cuối năm 1969 và năm 1970 bọn địch huy động quân chủ lực mạnh tập trung càn quét đánh phá ác liệt ở Tam Kỳ, Thăng Bình. Đi đến đâu bọn chúng cũng tàn sát, bắn, giết người, cướp của, đốt sạch nhà cửa, xúc dân. Ngoài ra bọn địch còn thả “Mỹ lếch” lùng sục khắp nơi để bắn giết cán bộ, nhân dân ta.  Đầu năm 1971 sau khi lập được khu dồn tại chỗ (thôn 2, thôn 3 và 06 chốt điểm tại xã Bình Dương), lúc này du kích xã, thôn và gần 300 dân của thôn 4, thôn 5 bật ra đứng ở Bàu Bính. Một số du kích xã, thôn được điều bổ sung vào bộ đội địa phương huyện. Trước tình hình bức bách, gay go, phức tạp, bộ máy lãnh chỉ đạo được Đảng uỷ phân công như sau: đồng chí Phan Thanh Bốn - Thường vụ Tỉnh uỷ về làm xã đội trưởng, đồng chí Trần Ngộ thường vụ Huyện uỷ làm Bí thư xã Bình Dương. Sau khi ổn định bộ máy xong thì căn cứ Lõm Bàu Bính cũng được thành lập. Căn cứ lõm có diện tích trên 2km vuông, phía Bắc có 30 gia đình trụ bám của xã Duy Nghĩa, phía Tây có phòng  tuyến bố  trí nhiều bãi mìn, nhiều  loại mìn, nhiều ổ  tác chiến, có trạm tiền tiêu, có trạm Phẫu giã chiến…bên trong có công sự mật. Kỷ luật đi lại, ăn, ở trong căn cứ rất chặt chẽ, nếu sơ suất sẽ bị vướng mìn, hầm chông… 
Và cũng trong thời gian này, Huyện uỷ huyện Thăng Bình quyết định thành lập nhanh Đảng uỷ cánh Đông, để cùng nhân dân, Đảng uỷ xã Bình Dương chiến đấu bảo vệ căn cứ Lõm Bàu Bính. Đồng chí Nguyễn Đức Bốn làm Bí thư Huyện uỷ kiêm Bí thư Đảng uỷ  cánh Đông,  cùng  các  đồng  chí Ngô  Thanh Dũng  Phó  Ban Dân  vận  tỉnh,  Phan Thanh Toán Uỷ viên Thường vụ Huyện uỷ làm uỷ viên, Ban chỉ huy đặt ngày tại căn cứ nhỏ bé này. Kế hoạch hoạt động của khu căn cứ Lõm được phân công rất cụ thể, ngoài việc bố trí các mặt chiến đấu bảo vệ khu vực căn cứ lõm, ban đêm phân công cán bộ, du kích vào khu dồn để nắm tình hình địch. Trạm tiền tiêu trực chiến 24/24. 
Từ đầu năm 1971 đến cuối năm 1972 địch nhiều lần dùng vũ lực mạnh đánh vào căn cứ Lõm Bàu Bính, lần nào cũng bị quân ta đánh trả quyết liệt, quân số bị tiêu hao rất nhiều. Đầu tháng 12/1972 địch điều động nhiều binh chủng, trang bị nhiều loại vũ khí dưới quyền chỉ huy của tướng Hoàng Xuân Lãm tư lệnh vùng 1 chiến thuật đánh vào căn cứ lõm. Ngoài pháo yểm trợ, bộ binh, xe tăng…còn có máy bay các loại ném bom liên tục trước khi quân bộ binh đổ vào. Nhận biết được tình hình, địch dùng áp lực mạnh, sự tăng cường quá lớn, nếu tiếp tục trụ  bám  tiếp  sẽ  không  có  lợi  cho quân, dân  ta. Để  bảo  tồn  lực  lượng, Ban  chỉ  huy thống nhất cho quân và dân trụ bám ở căn cứ Lõm Bàu Bính đi sơ tán và lực lượng bộ đội địa phương, dân quân, du kích bật ra khỏi căn cứ để bảo tồn lực lượng. Căn cứ Lõm Bàu Bính ở Bình Dương tồn tại hơn 2 năm ngay trước mặt quân thù nói lên ý chí quật cường,  tinh  thần yêu nước vô hạn, chiến đấu hết mình, chiến đấu đến cùng vủa quân và dân Bình Dương nói  riêng, quân và dân Thăng Bình, Quảng Nam nói chung. Căn cứ Lõm Bàu Bính, xã Bình Dương lúc bấy giờ được thành lập và tồn tại như một biểu tượng ngời ngời rực sáng để cho lớp lớp noi theo. 
Khu căn cứ lõm hiện nay thuộc thôn 4 và thôn 5 xã Bình Dương. Tại nơi đây, hiện nay là những đồi dương  liễu  trải dài dọc  theo những nổng cát, những  ruộng  lúa  tươi  tốt, những đám lạc (đậu phụng) hàng nối hàng thẳng tắp. Dọc theo con đường bêtông liên xã, nhà cửa của nhân dân san sát nhau định cư trên chính khu căn cứ Lõm ngày xưa, nơi mà quân và dân Bình Dương đã trụ bám kiên cường trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ đầy cam go và ác liệt nhất. Hiện nay hình ảnh căn cứ Lõm của trận địa năm xưa không còn nữa. Thay vào đó là những ngôi nhà ngói khang trang, ruộng đồng tươi tốt…đang vươn mình đi lên. 

Khu căn cứ Lõm Bàu Bính thể hiện tinh thần đấu tranh trung kiên, bất khuất của nhân dân Bình Dương nói riêng và nhân dân Thăng Bình nói chung. 
Khu căn cứ Lõm Bàu Bính thể hiện tinh thần yêu nước, căm thù giặc sâu sắc của nhân dân Bình Dương, những con người một lòng gởi trọn niềm tin vào Đảng, vào Bác Hồ. 
Khu căn cứ Lõm Bàu Bính thể hiện mối quan hệ quân dân khắng khít vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp, bảo vệ quê hương, đất nước vì độc lập, tự do của dân tộc.
Nguồn: baoninhthuan.com.vn
THEO DÒNG LỊCH SỬ
Những ngày đáng nhớ trong tháng 8
01/8/1930: Ngày truyền thống ngành tuyên giáo của Đảng.
10/8/2004: Ngày vì nạn nhân chất độc màu da cam.
19/8/1945: Ngày Cách mạng tháng Tám thành công.
19/8/1945: Ngày thành lập Công an nhân dân Việt Nam.
28/8/2004: Ngày truyền thống Văn phòng cơ quan hành chính Nhà nước.

19/8/1945: Cách mạng tháng Tám, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Đầu năm 1945, quân đội Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi trên chiến trường Châu Âu, giải phóng hàng loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt của phát xít Đức ở Béclin. Ngày 08/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện. Ngày 08/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật, đẩy quân phiệt Nhật vào tình thế thất bại. Ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, nhận định thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền đã tới, những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi. Uỷ ban khởi nghĩa gửi quân lệnh số 1 cho đồng bào và cho chiến sĩ cả nước ngay trong đêm ấy.
Ngày 16/8/1945, đại hội họp ở Tân Trào đã thông qua “10 Chính sách lớn của Việt Minh”, thông qua “lệnh tổng khởi nghĩa” quyết định Quốc Kỳ nền đỏ, sao vàng, chọn bài tiến quân ca làm Quốc ca và bầu ra uỷ ban dân tộc giải phóng Trung Ương, tức chính phủ lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn thể đồng bào ta hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu Nhân dân ta từ Bắc đến Nam đã tiến hành cuốc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng tám thành công.
Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ 14/8, một ngày sau khi Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc. Từ ngày 14 đến 18, tổng khởi nghĩa giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng miền Bắc, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và các thị xã Bắc Giang, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Hội An.
Ngày 17/8, ở Hà Nội, tổng hội viên chức chính quyền bù nhìn tổ chức một cuộc mittinh lớn tại Quảng trường nhà hát thành phố, có hàng vạn người tham gia để ủng hộ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Trong mittinh này, dưới sự lãnh đạo của xứ Uỷ Bắc Kỳ và thành Uỷ Hà Nội, quần chúng cách mạng đã giương cao lá cờ đỏ sao vàng, chiếm lấy diễn đàn cuộc mittinh, cán bộ Việt Minh đã diễn thuyết báo tin cho đồng bào biết quân phiệt Nhật đã đầu hàng và giới thiệu chủ trương đường lối cứu nước của Việt Minh, kêu gọi Nhân dân đánh đổ chính quyền bù nhìn thân Nhật. Cuộc mittinh đã tiến thành cuộc biểu tình, tuần hành thị uy, bắt đầu từ quảng trường nhà hát thành phố và lan khắp nơi trên phố phường Hà Nội. Cả Hà Nội tưng bừng khí thế sục sôi khởi nghĩa.
Ngụy quyền cực kỳ bối rối hoang mang, chúng dựng lên cái gọi là “Uỷ ban chính trị” đề nghị với Việt Minh: “Đằng nào các ông cũng thắng, nhưng để điều đình với Đồng Minh sẽ vào Đông Dương giải giáp quân Nhật, đề nghị vùng nông thôn cách thành phố 15km là thuộc quyền các ông, còn thành phố cần có nhân sĩ, trí thức đứng ra giao dịch với Đồng Minh”.
Đại biểu Việt Minh đã trả lời dứt khoát, “giao dịch với Đồng Minh lúc này, ngoài Việt Minh không ai có thể có lực lượng và danh nghĩa cả”.
Sáng ngày 19/8, theo lời kêu gọi của Việt Minh, cả Hà Nội vùng dậy dưới rừng cờ đỏ sao vàng xuống đường tiến thẳng về trung tâm Nhà hát thành phố để dự mittinh. Họ vừa đi vừa hô khẩu hiệu:
* Đả đảo chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.
* Thành lập chính phủ dân chủ cộng hòa Việt Nam.
* Anh em binh lính hãy mang súng gia nhập hàng ngũ chiến đấu bên cạnh Việt Minh.
* Việt Nam hoàn toàn độc lập.
Cuộc mittinh diễn ra vào ngày 19/8/1945. Sau loạt súng chào cờ và bài Tiến Quân Ca, đại biểu uỷ ban quân sự cách mạng đọc lời hiệu triệu của Việt Minh. Cuộc mittinh trở thành cuộc biểu tình vũ trang tiến vào chiếm phủ khâm sứ, trại lính bảo an và các cơ sở của chính phủ bù nhìn. Từ Hà Nội, làn sóng cách mạng toả đi khắp nơi, cả nước vùng dậy đấu tranh giành chính quyền và liên tiếp giành thắng lợi. Cách mạng tháng tám là sự kiện vĩ đại trong lich sự dân tộc, đánh dấu bước tiến nhảy vọt của cách mạng Việt Nam. Đây là lần đầu tiên giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền trong cả nước, lần đầu tiên chế độ dân chủ nhân dân ở Việt Nam ra đời.
Nguồn: lichsuvietnam.vn

Ngày 19/8/1945: Ngày thành lập Công an nhân dân Việt Nam
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Trong cao trào cách mạng 1930-1931, Đảng đã tổ chức “Đội tự vệ đỏ” để bảo vệ chính quyền Xô-viết, chống địch khủng bố, trấn áp bọn phản cách mạng và giữ gìn an ninh trật tự. Từ đó trở đi, tổ chức “Đội tự vệ” đã xuất hiện trong các cuộc đấu tranh của quần chúng, các “Đội tự vệ”, “Đội danh dự trừ gian”, “Đội trinh sát”, “Đội hộ lương diệt ác” ở khu giải phóng trước ngày Tổng khởi nghĩa là những tổ chức tiền thân của Công an nhân dân Việt Nam.
  Ngày 19/8/1945, cuộc khởi nghĩa thắng lợi ở Thủ đô Hà Nội, chính quyền thực dân phong kiến bị đập tan, lực lượng an ninh cách mạng cùng các lực lượng khởi nghĩa khác chiếm lĩnh các trụ sở chính quyền cũ, bảo vệ cuộc khởi nghĩa thắng lợi.
  Ngày 19/8/1945 được lấy làm ngày thành lập Công an nhân dân Việt Nam.
  Đêm 13/7/1946, lực lượng CAND Thủ đô, được sự phối hợp của các đơn vị Vệ quốc đoàn, tự vệ chiến đấu, đã đập tan âm mưu phản cách mạng định lật đổ chính quyền của ta vào 14/7 do bọn phản động Việt quốc, Việt cách tổ chức. Các sào huyệt của chúng ở 80 phố Quán Thánh, 162 phố Bùi Thị Xuân, 7 phố Ôn Như Hầu, ở Trúc Bạch, Ngũ Xã bị phá tan, nhiều tên phản động bị tóm gọn, tội ác của chúng bị phơi trần.
  Bước vào cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ, Công an đã kịp thời chuyển hướng tổ chức và hoạt động. Trước tiên là đảm bảo an toàn việc di chuyển toàn bộ các cơ quan chính quyền, đoàn thể và tản cư Nhân dân ra khỏi vùng có chiến sự; bảo vệ việc vận chuyển tài liệu, kho tàng, tài sản nhà nước; xây dựng và bảo vệ căn cứ địa kháng chiến; có kế hoạch chiến đấu ngay trong vùng địch chiếm đóng và đối phó với âm mưu của chúng đánh ra vùng tự do.
  Tháng 3/1948, trong thư gửi Công an khu XII, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định:
  Tư cách người công an cách mệnh là:
  Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.
  Đối với đồng sự, phải thân ái, giúp đỡ.
  Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
  Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
  Đối với công việc, phải tận tụy.
  Đối với địch, phải kiên quyết, khôn khéo.
  Từ đó trở đi, cán bộ chiến sĩ công an đều ra sức rèn luyện và phấn đấu theo 6 điều Bác Hồ dạy.
  Các lực lượng công an đã hoạt động khôn khéo, mưu trí, dũng cảm chiến đấu với bọn phòng nhì Pháp, đi sâu vào lòng địch, phá vỡ những âm mưu tình báo gián điệp của chúng, giữ vững an ninh trật tự vùng có chính quyền nhân dân, phục vụ các chiến dịch, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Pháp giành thắng lợi. Nhiều tấm gương hy sinh oanh liệt như Bửu Đóa ở Khánh Hòa, Bùi Thị Cúc ở Hưng Yên, Võ Thị Sáu ở Bà Rịa… làm rạng rỡ Công an nhân dân Việt Nam và dân tộc ta.
  Trong công cuộc bảo vệ miền Bắc và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, cùng với các lực lượng khác, công an đã tổ chức bảo vệ tuyệt đối an toàn lãnh tụ, bảo vệ chính quyền, tính mạng và tài sản của nhân dân. Phong trào bảo vệ trị an, “bảo mật phòng gian” phát triển mạnh mẽ đã phát hiện, tiêu diệt nhiều tổ chức gián điệp, biệt kích của địch cài cắm lại hoặc do Mỹ, ngụy tung ra miền Bắc nhằm phá hoại sự nghiệp cách mạng. Cuộc đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội có kết quả.
  Lực lượng an ninh miền Nam đấu tranh chống hoạt động tình báo, gián điệp và các tổ chức phản động, phục vụ sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, Tổ quốc độc lập, thống nhất, đi lên CNXH. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch khác tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp cách mạng của chúng ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ. Cuộc vận động “Xây dựng lực lượng công an trong sạch, vững mạnh, đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc” và phong trào học tập thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy đã thúc đẩy lực lượng công an hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nhiều âm mưu gây rối, gây bạo loạn bị dập tắt. Cuộc đấu tranh chống tội phạm hình sự, giữ gìn trật tự an toàn xã hội từng bước có kết quả.
          Công an nhân dân Viêt Nam tiếp tục kế thừa và phát triển mối quan hệ hợp tác quốc tế với lực lượng an ninh và nội vụ các nước anh em, bè bạn trên thế giới. Trong công cuộc đổi mới, công an nhân dân đang nỗ lực phấn đấu góp phần xứng đáng vào sự nghiệp ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Những phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước tặng các tập thể, cá nhân lực lượng Công an nhân dân (tính đến tháng 2/2015): 3 Huân chương Sao Vàng tặng lực lượng CAND (năm 1980, 1985, 2000). 9 Huân chương Sao Vàng tặng: lực lượng An ninh nhân dân (1995), lực lượng Tình báo (1995), lực lượng Cảnh sát nhân dân (2003), Bộ Tư lệnh Cảnh vệ (2003), Tổng cục An ninh (2006), Tổng cục Tình báo (2006), Lực lượng Bảo vệ Chính trị I (2008); Công an Thành phố Hà Nội (2010); Học viện An ninh nhân dân (2011). 3 Huân chương Sao Vàng tặng các đồng chí cố Bộ trưởng (Phạm Hùng, Trần Quốc Hoàn và Mai Chí Thọ). 1 Huân chương Hồ Chí Minh tặng lực lượng CAND (1975). 88 Huân chương Hồ Chí Minh tặng Công an các đơn vị, địa phương. 10 Huân chương Hồ Chí Minh tặng cán bộ, chiến sĩ CAND. 663 lượt tập thể, 380 cán bộ, chiến sĩ CAND được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng VTND; 1 tập thể và 1 cán bộ CAND được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới và hàng ngàn tập thể, cán bộ, chiến sĩ CAND được tặng Huân chương Độc lập, Huân chương Quân công, Huân chương Chiến công, Huân chương Bảo vệ Tổ quốc, Huân chương Lao động. Hàng vạn tập thể, cán bộ, chiến sĩ CAND được tặng Kỷ niệm chương Bảo vệ an ninh Tổ quốc, Huy chương các loại và Bằng khen của Chính phủ.
Nguồn: lichsuvietnam.vn
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH MỚI
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn tháng 8/2018, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên, thanh niên, các tổ chức Đoàn thông tin về 6 chính sách tiền lương, nghề nghiệp, phụ cấp có hiệu lực từ tháng 8/2018.
1. Tăng mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công
Từ ngày 27/8, Nghị định 99/2018/NĐ-CP quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng có hiệu lực thi hành.
Theo đó, mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi hàng tháng được quy định như sau:
Mức trợ cấp đối với Người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945: Diện thoát ly là 1.693.000 đồng; diện không thoát ly 2.874.000 đồng.
Trợ cấp tiền tuất đối với thân nhân của 1 liệt sĩ 1.515.000 đồng; trợ cấp tiền tuất đối với thân nhân của 2 liệt sĩ 3.030.000 đồng; trợ cấp tiền tuất đối với thân nhân của 3 liệt sĩ trở lên 4.545.000 đồng.
Về trợ cấp ưu đãi hàng năm được quy định như sau: Liệt sĩ không còn người hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng thì người thờ cúng liệt sĩ được hưởng trợ cấp thờ cúng là 500.000 đồng.
Trợ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng theo quy định của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng không hưởng lương hoặc sinh hoạt phí khi đi học tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học là 300.000 đồng…
2. Viên chức ngành giáo dục nghề nghiệp tuân thủ 4 tiêu chuẩn
Thông tư 03/2018/TT - BLĐTBXH của Bộ LĐ-TB&XH quy định tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành giáo dục nghề nghiệp có hiệu lực từ ngày 01/8.
Theo đó, viên chức ngành giáo dục nghề nghiệp cần đáp ứng 4 tiêu chuẩn chung về đạo đức nghề nghiệp của viên chức chuyên ngành giáo dục nghề nghiệp: Tâm huyết với nghề, giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín, lương tâm nhà giáo…
Tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của cơ sở giáo dục nghề nghiệp, của ngành.
Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí.
Đáp ứng các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp khác của viên chức chuyên ngành giáo dục nghề nghiệp quy định tại khoản 4 Điều 53 Luật giáo dục nghề nghiệp …
3. Quy định các mức lương của giáo viên dự bị đại học
Thông tư 07/2018/TT - BNV do Bộ Nội vụ ban hành về quy định bổ nhiệm và xếp lương giáo viên dự bị đại học nêu rõ, từ ngày 01/8, viên chức được bổ nhiệm vào các chức danh nghề nghiệp giáo viên dự bị đại học quy định tại Thông tư số 06/2017/TT-BNV và Thông tư số 30/2017/TT-BGDĐT được áp dụng bảng lương tương ứng ban hành kèm theo Nghị định 204/2004/NĐ-CP về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, như sau:
Chức danh nghề nghiệp giáo viên dự bị đại học hạng I (mã số V.07.07.17) được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A2 (nhóm A2.1), từ hệ số lương 4,40 đến hệ số lương 6,78.
Chức danh nghề nghiệp giáo viên dự bị đại học hạng II (mã số V.07.07.18) được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A2 (nhóm A2.2), từ hệ số lương 4,00 đến hệ số lương 6,38.
Chức danh nghề nghiệp giáo viên dự bị đại học hạng III (mã số V.07.07.19) được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A1, từ hệ số lương 2,34 đến hệ số lương 4,98…
4. Quy định mức phụ cấp với cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ
Từ ngày 10/8, Nghị định 90/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cảnh vệ sẽ có hiệu lực. Theo đó, cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ được hưởng phụ cấp đặc thù từ 15% đến 30% tính trên mức lương cấp bậc hàm hoặc phụ cấp cấp bậc hàm hiện hưởng ngoài các chế độ phụ cấp khác (nếu có).
Mức phụ cấp 30% áp dụng đối với: Cán bộ, chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ: Bảo vệ tiếp cận; bảo vệ khách quốc tế đến thăm, làm việc tại Việt Nam; tuần tra, canh gác tại nơi ở, nơi làm việc, khu vực trọng yếu, sự kiện đặc biệt quan trọng; Cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo, chỉ huy; Cán bộ, chiến sĩ không giữ chức vụ có cấp bậc hàm từ Trung úy hoặc có mức lương tương đương cấp bậc hàm Trung úy trở xuống; chiến sĩ hưởng phụ cấp cấp bậc hàm.
Mức phụ cấp 25% áp dụng đối với: Cán bộ, chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ: Lái xe bảo vệ tiếp cận, lái xe nghiệp vụ, dẫn đường, hộ tống; kiểm tra chất nổ, chất cháy, chất phóng xạ hoặc vật nguy hiểm khác, kiểm nghiệm độc chất; tác chiến; trinh sát; thông tin phục vụ công tác bảo vệ; đặc nhiệm; cơ động; Cán bộ, chiến sĩ không giữ chức vụ có cấp bậc hàm Thượng úy, Đại úy hoặc có mức lương tương đương cấp bậc hàm Thượng úy, Đại úy…
5. Áp dụng mức trợ cấp mới tới cán bộ xã già yếu nghỉ việc
Thông tư 08/2018/TT-BNV của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện điều chỉnh mức trợ cấp hàng tháng tới cán bộ xã đã nghỉ việc theo QĐ 130-CP ngày 20/6/1975 của Hội đồng Chính phủ và QĐ 111-HĐBT ngày 13/10/1981 của Hội đồng Bộ trưởng (gọi tắt là cán bộ xã già yếu nghỉ việc) sẽ có hiệu lực từ ngày 15/8.
Theo đó, việc điều chỉnh mức trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã già yếu nghỉ việc theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 88/2018/NĐ-CP ngày 15/6/2018 của Chính phủ điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng tăng thêm 6,92% mức trợ cấp hàng tháng trên mức trợ cấp được hưởng tại thời điểm tháng 6/2018.
Như vậy, mức trợ cấp hàng tháng được hưởng từ ngày 01/7/2018 của cán bộ xã già yếu nghỉ việc được tính như sau.
Đối với cán bộ nguyên là Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã: 1.846.000 đồng/tháng x 1,0692 = 1.974.000 đồng/tháng.
Đối với cán bộ nguyên là Phó Bí thư, Phó Chủ tịch, Thường trực Đảng ủy, ủy viên thư ký Ủy ban nhân dân, Thư ký Hội đồng nhân dân xã, Xã đội trưởng, Trưởng công an xã: 1.786.000 đồng/tháng x 1,0692 = 1.910.000 đồng/tháng.
Đối với các chức danh còn lại: 1.653.000 đồng/tháng x 1,0692 = 1.768.000 đồng/tháng.
6. Hỗ trợ với công chức, viên chức Hà Nội
Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội khóa XV, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Nghị quyết số 04/2018/NQ - HĐNT quy định về việc ban hành nội dung, mức chi đặc thù thuộc thẩm quyền của HĐND TP Hà Nội.
Theo đó, từ ngày 01/8/2018-31/12/2020, công chức, viên chức chuyên trách về công nghệ thông tin tại Hà Nội sẽ được hỗ trợ 2.780.000 đồng/người/tháng, nếu có trình độ đại học trở lên hoặc 2.085.000 đồng/người/tháng, nếu có trình độ cao đẳng hoặc trung cấp.
Nghị quyết 04/2018/NQ - HĐNT cũng nêu rõ, trong thời gian trên, một số khoản chi sẽ được quy định như sau:
Chi hỗ trợ ban đầu cho cán bộ bị thương, tai nạn khi đang làm nhiệm vụ đảm bảo trật tự an toàn giao thông (TTATGT) là 2.000.000 đồng/người.
Chi hỗ trợ ban đầu cho gia đình cán bộ hy sinh đang làm nhiệm vụ đảm bảo TTATGT là 5.000.000 đồng/người; Bồi dưỡng thành viên của Ban An toàn giao thông Thành phố 700.000 đồng/người/tháng.
Chi hoạt động kiểm tra, giám sát về TTATGT là 100.000 đồng/người/ca (04 giờ trở lên); chi bồi dưỡng cán bộ Thanh tra giao thông 1.000.000 đồng/người/tháng…
Nguồn: thanhgiong.vn
GƯƠNG THANH NIÊN LÀM KINH TẾ GIỎI
Vua cá chình 9X
 
Từ bỏ công việc kĩ thuật có mức lương ổn định, chàng kỹ sư trẻ 9X Võ Văn Sang trở về quê ở thôn Thái Bắc, xã Thái Thủy, huyện Lệ Thủy (Quảng Bình) lập nghiệp với mô hình nuôi cá chình. Mỗi năm, chàng trai này có thu nhập hơn 300 triệu đồng, được mệnh danh là “vua” cá chình.
Đam mê nông nghiệp
Sinh ra trong một gia đình làm nông nghiệp, từ nhỏ Võ Văn Sang (SN 1991) đã có tình yêu mãnh liệt với đất đai, cây cỏ và động vật. Tốt nghiệp THPT, Sang quyết định thi vào ngành Nông nghiệp của trường ĐH Quảng Bình để nuôi dưỡng đam mê của mình. Học năm đầu tiên, thấy ngành học không phù hợp, Sang quyết định thi lại đại học đúng với ngành mà mình đam mê. May mắn đã mỉm cười, Sang thi đỗ vào ngành Cây trồng thuộc trường ĐH Nông lâm (Huế).
Năm 2014, Sang tốt nghiệp ra trường đi làm tư vấn kĩ thuật cho một người quen ở Kon Tum theo ý của gia đình với mức lương 6 triệu đồng/tháng. Đây là mức lương tốt đối với nhiều bạn trẻ khi mới ra trường. Nhưng càng làm Sang càng suy nghĩ nhiều hơn về đam mê, những dự định làm nông nghiệp của mình và bắt đầu mày mò tìm hiểu, lên kế hoạch riêng cho bản thân. Để thực hiện, Sang nhiều lần gọi về xin ý kiến của mẹ nhưng nhận được sự phản đối quyết liệt. “Tôi khuyên Sang làm công nhân để ổn định lại có thu nhập. Tôi vốn làm nông dân nên hiểu rõ những vất vả của người làm nông. Nên khi Sang nói bỏ việc để về quê nuôi cá chình tôi đã không đồng ý”, bà Nguyễn Thị Duệ, mẹ của Sang cho hay.
Sau hơn 6 tháng thuyết phục, cuối cùng bà Duệ đã đồng ý với quyết định của Sang. Đầu năm 2016, chàng trai 9X bắt đầu kế hoạch của mình với mô hình nuôi cá chình.
Thu hơn 300 triệu đồng/năm
Võ Văn Sang là một trong những người đầu tiên ở Quảng Bình thực hiện mô hình nuôi cá chình trong ao đất. “Cá chình là loại cá có giá trị kinh tế cao, dễ nuôi, ít bệnh và đầu ra thuận lợi. Tôi quyết định khởi nghiệp bắt đầu từ loài cá này vì có rất ít người nuôi chúng”, Sang nói.
Để có vốn, Sang cầm sổ đỏ đi thế chấp vay ngân hàng150 triệu đồng. Có vốn anh bắt tay vào việc đào ao nuôi, rồi vào Nha Trang tìm hiểu cách nuôi cá chình, tìm kiếm nguồn giống.
Vụ đầu tiên, Sang thả 400 con giống. Sau hơn một năm chăm sóc cá chình phát triển tốt, mỗi con có trọng lượng từ 1kg đến 1,5kg. Đầu ra của loài cá này khá thuận lợi, nuôi được bao nhiêu là có người đặt mua bấy nhiêu. Với giá giao động từ 500 đến 600 ngàn đồng/kg, vụ đầu tiên Sang thu hơn 200 triệu đồng (chưa trừ các chi phí).
Thức ăn chủ yếu của cá chình là các loại cá nhỏ được xay ra. Để chủ động nguồn thức ăn, Sang đào tiếp hồ thứ hai nuôi cá rô phi. “Mùa hè nguồn thức ăn cho cá rẻ và dễ kiếm nhưng mùa đông thì có tiền cũng khó mà mua được. Tôi đã thả nuôi cá rô phi trên diện tích 600m2 để chủ động nguồn thức ăn cho cá chình”, Sang cho biết.
Không giữ bí kíp nuôi cá chình riêng cho bản thân, anh đã hướng dẫn nguồn giống và kĩ thuật nuôi cho nhiều người khác. Hiện ao cá của Sang có hơn 800 con đang chuẩn bị vào lứa thu hoạch. Trọng lượng trung bình mỗi con hơn 1kg, Sang ước tính vụ này thu được hơn 800kg cá chình. “Với giá 500 nghìn đồng 1kg em nhẩm tính thu nhập được 400 triệu từ cá chình, trừ chi phí sẽ còn hơn 300 triệu đồng”, Sang chia sẻ.
Theo Sang, để cá chình phát triển tốt người nuôi cần vệ sinh ao kĩ trước khi xuống giống. Ngoài ra cần cung cấp đủ không khí và giữ nước ao luôn được sạch. Thông thường thức ăn cho cá chình bằng 5% trọng lượng mỗi con cá. Mỗi ngày cho cá ăn hai bữa sáng và chiều tối. Hiện Sang tiếp tục nuôi cá rô đầu vuông và trồng hơn 5 ha rừng keo, thông. Thời gian tới, Sang sẽ mở rộng ao nuôi, tăng số lượng nuôi cá chình lên 1.000 con.
“Muốn cá chình phát triển đồng đều, cứ sau 3 tháng cần phải phân loại cá. Với trọng lượng cá khác nhau cần có thêm chế độ ăn phù hợp. Vì vậy, cần phân nhỏ ao nuôi. Người nuôi cần nuôi xen một số giống cá khác như: cá mè, cá trắm để hạn chế sự phát triển của tảo và làm sạch hồ nuôi”, Võ Văn Sang chia sẻ.
Nguồn: thanhgiong.vn
CÂU CHUYỆN ĐẸP
Chàng trai khơi nguồn cho đam mê sách báo
Ít nói, hay cười, đó là cảm nhận đầu tiên khi chúng tôi tiếp xúc với Lữ Công Lập (28 tuổi), người đoạt giải xuất sắc hội thi Cán bộ thư viện giỏi toàn quốc năm 2018.
Tốt nghiệp Khoa Thông tin thư viện Trường đại học Cần Thơ, Lập về công tác tại Thư viện TP.Cần Thơ. Nhiệm vụ hằng ngày của anh là biên mục báo, tạp chí phục vụ bạn đọc; nhập cơ sở dữ liệu toàn văn, thông tin ngân hàng thế giới. Với nhiệm vụ nào anh cũng luôn hoàn thành tốt.
Năm ngoái, anh Lập có sáng kiến: “Biên soạn thư mục toàn văn trên báo, tạp chí và ứng dụng mã QR đọc nội dung tài liệu trên điện thoại di động”. Đây là sáng kiến hoàn toàn mới lạ, hiệu quả thiết thực trong nghiệp vụ thư viện, được đánh giá là mô hình sáng kiến đầu tiên trong hệ thống thư viện cả nước. Sáng kiến này cùng với phần thi trả lời trắc nghiệm và giới thiệu sách đã giúp anh Lập đoạt giải xuất sắc; đồng thời đoạt giải chuyên đề viết giải pháp sáng kiến, kinh nghiệm thiết thực, hiệu quả.
Kể về sản phẩm mới của mình, anh Lập chia sẻ: “Thư viện TP.Cần Thơ hiện có trên 220 loại báo, tạp chí và trên 270.000 bản sách, với ứng dụng này, bạn đọc có thể tra cứu, tìm đọc toàn bộ nội dung mình cần tìm trên điện thoại thông minh bất kỳ ở đâu mà không phải trực tiếp đến thư viện như trước đây. Cách truy cập này rất nhanh chóng, tiện ích, tiết kiệm thời gian cho nhiều bạn đọc ở xa, nhất là đỡ vất vả cho những người cao tuổi”.
Anh Lập cho biết anh chưa dừng lại ở đây mà vẫn đang tìm kiếm để ra mắt nhiều sáng kiến tiện ích khác cho người quản lý lẫn bạn đọc. Đây cũng là cách để thu hút nhiều người đọc sách, báo, tạp chí khơi nguồn cho tập quán đam mê sách báo, nâng cao chất lượng văn hóa đọc.
Nguồn: thanhgiong.vn
BÀI HÁT THANH NIÊN
Áo xanh mùa hè xanh
                                Sáng tác: Thế Hiển

 
Hoa phương đỏ sân trường
Con đường dài kỷ niệm
Chân trời ngàn én lượn
Cánh tay người vẫy ta

Mùa hè xanh bạn ơi
Mùa hè xanh lòng người
Mùa hè xanh quê hương
Mùa hè xanh muôn nơi
Anh ơi....... mùa hè xanh
Xanh mênh mông bầu trời
Xanh bao la mặt biển
Xanh xanh bao đồng lúa
Xanh xanh bao cánh rừng
Em ơi.... mùa hè xanh
Khi ta mặc áo xanh
Đất trời như trẻ lại
Yêu thương là mãi mãi
Ta đi về muôn nơi

TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN THÁNG 9/2018
CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 73 NĂM NGÀY QUỐC KHÁNH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM (02/9/1945-02/9/2018)

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH
HỒ CHÍ MINH
CHUYÊN ĐỀ
THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ THEO
TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
(Tài liệu dành cho đoàn viên, thanh niên năm 2018 của Ban Bí thư Trung ương Đoàn)
 
Phần thứ hai
THANH NIÊN VIỆT
NAM THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ
THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

Từ tháng 02/1955, trong bài viết “Bảo vệ tài sản công”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Các ngành giáo dục cần phải bồi dưỡng cho thanh niên thói quen tiết kiệm, bảo vệ của chung; chống lãng phí xa hoa, xem khinh lao động”. Như vậy, vấn đề tiết kiệm, chống lãng phí đối với thanh niên không chỉ là một yêu cầu cần được giáo dục mà còn phải rèn luyện để tạo thành thói quen trong công việc và cuộc sống hàng ngày. Trên thực tế, có rất nhiều thanh niên thực hiện tốt lời Bác dạy về tiết kiệm, chống lãng phí, nhưng vẫn còn những thanh niên thực hiện chưa tốt, đang còn lãng phí thời gian, sức khỏe, tài năng… Gần đây, Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 217/QĐ-TTg, ngày 13/02/2018 về việc ban hành chương trình tổng thể của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2018, càng cho thấy ý nghĩa, tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về tiết kiệm, chống lãng phí.
Thanh niên là một lực lượng năng động, sáng tạo, giàu nghị lực, có lý tưởng cao đẹp, có thể đảm đương và hoàn thành tốt các nhiệm vụ khó khăn, nặng nề nhất khi cách mạng giao phó. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên” và “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Do vậy, thanh niên càng phải là lực lượng đi tiên phong trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong tình hình hiện nay, thanh niên cần tập trung vào một số vấn đề trọng tâm, có ý nghĩa thiết thực sau đây:
Tích cực học tập tư tưởng và tấm gương mẫu mực của Người về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Có thể nói, hiện nay thanh niên là lực lượng có vai trò cực kỳ quan trọng mang ý nghĩa chiến lược, lâu dài trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Bởi vì kết quả học tập và làm theo Bác của thanh niên có tác động to lớn đến tương lai đất nước và ảnh hưởng sâu rộng đến các thế hệ tiếp theo. Thanh niên cần được trang bị thế giới quan duy vật, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa và phương pháp luận biện chứng, nhận thức đúng về vai trò của mình để có tư tưởng, hành động cách mạng tiến công, từng bước hình thành, hoàn thiện và phát triển toàn diện nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, thanh niên không chỉ tìm hiểu những bài viết, bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tiết kiệm, chống lãng phí mà cần sưu tầm, ghi nhớ những câu chuyện cảm động, mẫu mực về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong công tác và sinh hoạt đời thường của Người.
Từ những vấn đề lý thuyết và tấm gương thực tế sinh động của Hồ Chí Minh để thanh niên tự soi mình, sửa mình và rèn luyện, tạo được thói quen cho bản thân làm theo lời Bác dạy, phấn đấu trở thành tấm gương sáng trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí để cho người khác học theo, làm theo, làm gương sáng dìu dắt thiếu niên nhi đồng, tức là dìu dắt tương lai của dân tộc. Như Người từng viết: “thanh niên nói chung phải gương mẫu trong sản xuất, trong học tập, trong việc giữ vững kỷ luật và cải thiện đời sống của công nhân”. Chủ động tuyên truyền nâng cao nhận thức và ý chí quyết tâm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong thanh thiếu nhi.
Thanh niên không chỉ có nhiệm vụ tích cực học tập và làm theo Bác về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, mà cần phải tích cực tuyên truyền nhằm làm cho nhiều người trong xã hội, trước hết là những người xung quanh mình có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng, lợi ích to lớn  của thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cũng như tác hại của lãng phí đối với bản thân, gia đình và toàn xã hội. Qua đó, góp phần thúc đẩy mọi người tích cực hơn trong học tập và làm theo Bác.
Thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng, là lực lượng kế thừa và tiếp bước các thế hệ đi trước để thúc đẩy xã hội phát triển, đồng thời là lực lượng dìu dắt thiếu niên, nhi đồng. Trong mọi công việc, thanh niên luôn thi đua thực hiện khẩu hiệu: “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm”, “gian khổ thì đi trước, hưởng thụ sau mọi người”. Bởi vậy, mọi việc làm, hành động của thanh niên đều có tác động lớn đến tình hình đất nước, tạo ảnh hưởng rộng trong xã hội. Mỗi khi thanh niên tích cực thực hành tiết kiệm, đồng thời tuyên truyền tinh thần đó cho xã hội, đặc biệt là đối với tầng lớp thiếu nhiên nhi đồng, càng có ý nghĩa lớn lao, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ.
Thanh niên cần tập trung tuyên truyền học tập tấm gương Hồ Chí Minh trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thông qua những mẩu chuyện, những lời dạy của Người.        
Chú ý phát hiện, tuyên dương, nhân rộng các gương điển hình thanh thiếu nhi hoặc các cơ sở Đoàn, Hội, Đội có những ý tưởng, sáng kiến, cách làm hiệu quả trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Muốn việc làm đó có hiệu quả, thanh niên cần tổ chức tuyên truyền thường xuyên, liên tục thông qua nhiều hình thức như: các buổi sinh hoạt chính thức hoặc tổ chức sinh hoạt chuyên đề, các buổi dã ngoại, hoạt động vui chơi giải trí, sử dụng bản tin, sổ tay chi đoàn. Tổ chức giao lưu, giới thiệu, tuyên dương các gương sáng điển hình về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Các cấp bộ đoàn chủ động xây dựng hệ thống mẫu băng rôn, áp phích, tranh ảnh, đồ họa thông tin, đoạn phim ngắn… và phối hợp với các đơn vị liên quan để tuyên truyền, cổ động trực quan cho đoàn viên, thanh thiếu nhi nâng cao nhận thức về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Từ đó, tạo sức lan tỏa rộng khắp, tạo nên một hệ thống gồm nhiều tấm gương điển hình thanh thiếu niên về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, cống hiến tích cực cho xã hội, đất nước và gia đình. Tích cực rèn luyện các phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính”, tạo lập các phong trào thi đua sôi nổi thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong thanh niên.
“Cần, kiệm, liêm, chính”, vốn dĩ là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương. Người đã dạy: “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông,
Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa thì không thành trời. Thiếu một phương thì không thành đất. Thiếu một đức, thì không thành người”. Đối với mỗi cá nhân, kiệm là một trong chuỗi phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính”. Có kiệm thì mới có liêm, có liêm thì mới có chính. Kiệm là tiền đề, điều kiện để con người vươn tới liêm và chính. Đối với cả dân tộc, tiết kiệm là sức mạnh mềm – sức mạnh của văn hóa và đạo đức. Do đó, thanh niên muốn thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, cần phải đặt nó trong chuỗi các phẩm chất mới tạo nên tính hiệu quả thiết thực, trọn vẹn.
Thanh niên cần tích cực tham gia các phong trào của Đoàn, Hội, các hoạt động xã hội, xung kích, tình nguyện, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ngay trong từng hành động, việc làm cụ thể, “tuy việc nhỏ nhưng ý nghĩa lớn”. Để mỗi thanh niên tích cực tham gia thực hiện có hiệu quả hoạt động của Đoàn, Hội, Đội cần phát động các phong trào thi đua thực hành tiết kiệm, chống lãng phí với những chỉ tiêu cụ thể, thiết thực. Coi đây là nội dung quan trọng trong chương trình hành động của thanh niên và lấy kết quả đó làm một tiêu chí đánh giá, xếp loại, khen thưởng đoàn viên hằng năm.
Cá nhân thanh niên cần tích cực tham gia các phong trào thi đua lớn. Vận động các cơ sở đoàn, đoàn viên thanh niên trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp đi đầu thực hành tiết kiệm, làm gương cho đoàn viên, hội viên, thanh niên tham gia. Thực hiện chi tiêu tiết kiệm văn phòng phẩm, vật dụng văn phòng, chi phí điện, nước, đèn, quạt, máy lạnh, điện thoại… Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong trao đổi, lưu trữ văn bản, tài liệu, thông tin liên lạc, sử dụng nguồn ngân sách nhà nước tiết kiệm, chi đúng thực tế. Chủ động tiết kiệm chi phí trong tổ chức hoạt động, thực hiện phương châm tổ chức hoạt động theo hướng tận dụng tối đa các nguồn lực, không xa hoa, lãng phí nhưng vẫn đạt hiệu quả. Tích cực thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, ưu tiên hàng đầu sử dụng các sản phẩm sản xuất trong nước, không đua đòi, xa hoa lãng phí. Các cơ sở đoàn mạnh dạn đăng kí thực hiện thí điểm cuộc vận động, thi đua trong đoàn viên, thanh niên ý thức đi làm, đi học, hội họp, sinh hoạt đúng giờ; rèn luyện tác phong công nghiệp, dùng thời gian rỗi vào việc có ích cho bản thân, gia đình và xã hội, giảm thời gian “tán gẫu” trên mạng xã hội.
Gắn nội dung thực hành tiết kiệm, chống lãng phí vào thực hiện các nhiệm vụ chính trị, công việc chuyên môn của cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức Đoàn, Hội.
Tùy theo vị trí công việc, sinh hoạt trong tổ chức, cơ quan, đon vị cụ thể mà mỗi thanh niên cần có trách nhiệm, việc làm về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cho phù hợp. Nhưng nhất thiết phải luôn đề cao ý thức bảo vệ của công, coi trọng lao động, có ý thức công cộng tốt, gương mẫu trong cơ quan, đơn vị, địa phương, chi đoàn, chi hội… Đối với thanh niên là học sinh, sinh viên, học tập kiến thức, tích cực tu dưỡng đạo đức, rèn luyện sức khỏe, có lối sống lành mạnh, không vướng vào tệ nạn xã hội… chính là một cách thực hành thức tiết kiệm, chống lãng phí thiết thực cho bản thân, gia đình và xã hội… Bên cạnh đó, cần có việc làm thiết thực gắn với mỗi ngày đến trường như: tiết kiệm thời gian, tiết kiệm điện, nước cho nhà trường, không viết vẽ bậy trên bàn ghế, trên tường, không xả rác bừa bãi trong lớp học, không bẻ gãy cây xanh, dẫm đạp lên cỏ cây trong khuôn viên của nhà trường…
Đối với thanh niên công chức, viên chức, việc thực hiện tốt chuyên môn theo chức trách là nhiệm vụ chủ yếu, cần phải đi đầu trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Cần đổi mới phương pháp công tác, đổi mới lề lối làm việc, hội họp gắn với yêu cầu nâng cao chất lượng công việc; dùng thời gian rỗi để tham gia hoạt động có ích, tận dụng tối đa. thời gian vào việc có ích. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cho cơ quan, đơn vị bằng những việc làm thiết thực như: không đi muộn về sớm; hoàn thành tốt nhiệm vụ theo tiến độ; tiết kiệm giấy mực cho cơ quan; sử dụng điện nước một cách hợp lý… Thực hiện chi tiêu, kiểm tra sổ sách rõ ràng, tránh tổ chức hoạt động lãng phí, không hiệu quả.
Đối với thanh niên lực lượng vũ trang, biết quý trọng giữ gìn quân trang, quân dụng và chiến lợi phẩm; tích cực rèn luyện, phấn đấu, quyết tâm bảo vệ biên cương, Tổ quốc, giúp đỡ nhân dân, đồng bào nơi đóng quân…
Đối với thanh niên nông thôn cần chăm chỉ làm việc, không bỏ hoang ruộng đất, hạn chế các hoạt động đàn đúm, rượu chè, đình đám, tích cực thực hiện và vận động người thân thực hiện tốt nếp sống văn hóa mới, giảm bớt hủ tục ở địa phương; tranh thủ thời gian rãnh rỗi sau thời điểm mùa vụ để tìm kiếm thêm việc làm tăng thu nhập, hoặc học tập nâng cao kiến thức, kỹ năng lao động sản xuất; tích cực sáng tạo trong lao động, sản xuất để ứng dụng công nghệ cao vào hoạt động nông nghiệp…
Đối với thanh niên công nhân cần có ý thức tiết kiệm thời gian, nguyên vật liệu cho nhà máy, xí nghiệp nơi mình làm việc, có nhiều việc làm hữu ích cho doanh nghiệp. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cho công ty, xí nghiệp bằng những việc làm thiết thực như: thực hiện tốt nội quy, hoàn thành công việc đảm bảo tiến độ, không bỏ việc tùy tiện, bảo vệ tài sản máy móc công xưởng; thường xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, năng suất lao động…
Đối với doanh nhân trẻ, cùng với việc học tập kiến thức trên lĩnh vực kinh doanh, tài chính, ngân hành, luật kinh tế, kinh tế quốc tế… là những đòi hỏi để khởi nghiệp và xây dựng thành công doanh nghiệp thì cũng cần có kế hoạch giáo dục cho thanh niên trong công ty thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, coi tiết kiệm cho công ty cũng là tiết kiện của bản thân và xã hội.
Rèn luyện phong cách làm việc khoa học, có kế hoạch, sử dụng thời gian hợp lý, nêu cao ý thức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong mọi sinh hoạt cá nhân và ở nơi công cộng. Thanh niên biết cách lập kế hoạch làm việc một cách khoa học, có tính chủ động, sáng tạo cũng là thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đó chính là cách tiếp cận vấn đề một cách khoa học, gắn với yêu cầu của thực tiễn và điều kiện lịch sử. Độc lập thì không lệ thuộc, không bắt chước, không theo đuôi. Tự chủ là chủ động suy nghĩ và làm chủ suy nghĩ của mình, tự chịu trách nhiệm trước dân, trước nước, biết làm chủ bản thân và công việc, sẵn sang từ bỏ những gì mà thực tiễn kiểm nghiệm là sai hoặc là những cái cũ mà nay không còn phù hợp nữa để tiến tới đề xuất cái mới đáp ứng được thực tiễn cuộc sống đang đặt ra.
Trong công việc và cuộc sống hằng ngày, cần có kế hoạch cụ thể, tránh tùy tiện “đến đâu tính đó”, từ bỏ lối suy nghĩ “được chăng hay chớ”, “đến hẹn lại lên”; biết phân bổ thời gian, công sức, tiền bạc hợp lý cho từng công việc; xác định được nhiệm vụ cơ bản, trọng tâm của mình ở từng giai đoạn, thời điểm, cương vị công tác để đầu tư thời gian, công sức phù hợp, đem lại kết quả tốt. Trong trình bày, diễn đạt cần tiết kiệm lời, nói và viết ngắn gọn nhưng thông tin nhiều, nói đi đôi với làm, tốt nhất là nói ít làm nhiều. Người dạy: “Không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết. Khi không có gì cần nói, không có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn” . “Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết. Trước khi nói, phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận. Phải nhớ câu tục ngữ: Chó ba quanh mới nằm. Người ba năm mới nói”.
Cần tránh lãng phí thời gian vào những việc không cần thiết như quá đà chơi điện tử, nói chuyện phiếm trêm zalo, facebook, mà tập trung thời gian cho công việc học tập, nghiên cứu, chuyên môn nghiệp vu, rèn luyện sức khỏe, kỹ năng sống… Hiện nay, một bộ phận thanh niên chưa quan tâm đúng mức việc chăm lo bảo vệ sức khỏe, đang lãng phí trí tuệ, chưa cống hiến xứng đáng cho xã hội. Tránh quán sá, rượu bia la đà, thức thâu đêm cho những việc không cần thiết, lười lao động, lười thể dục thể thao. Có nhiều thanh niên mua sắm vật dụng, phương tiện cá nhân đắt tiền quá khả năng tài chính của bản thân. Phung phí, đầu tư tiền bạc, công sức không cần thiết vào một số việc làm vô bổ, thiếu thiết thực, trong khi đang cần đầu tư cho việc học tập, nghiên cứu chuyên môn, lập nghiệp.
Thanh niên nên thực hành tiết kiệm trong sinh hoạt, chi tiêu hàng ngày, ưu tiên sử dụng các phương tiện công cộng nhằm góp phần giảm thiểu chi phí; có ý thức tái sử dụng các nguyên vật liệu, hạn chế chất thải ra làm ô nhiễm môi trường. Tích cực xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp, có hành động tích cực nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu trong giai đoạn hiện nay.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, xây dựng nền tảng để sớm cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, trong đó đang triển khai nhiều chương trình, dự án xây dựng và phát triển vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa nhằm sớm rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền ngược, đồng bằng và vùng núi… nên đang rất cần huy động sức mạnh xung kích, tình nguyện, sáng tạo, tiết kiệm ở thanh niên. Do vậy, việc thanh niên học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí càng có ý nghĩa thiết thực. Đó cũng là một mục tiêu phấn đấu để thanh niên thi đua cống hiến, rèn luyện, thử thách, hoàn thành bất cứ nhiệm vụ gì mà Đảng và nhân dân giao phó.
Nguồn Ban Tuyên giáo Trung ương Đoàn
 
DI TÍCH LỊCH SỬ TẠI THĂNG BÌNH
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn tháng 9/2018, chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn đoàn viên thanh niên, các tổ chức Đoàn về Làng nghề hương truyền thống
Có một làng nghề ra đời cách đây 250 năm, trải qua các giai đoạn thăng trầm của lịch sử, cư dân nơi đây vẫn duy trì và phát triển làng nghề, bởi nghề này đã mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể, tạo việc làm và tăng thu nhập cho nông dân khi mùa vụ nhàn rỗi - Đó là nghề làm hương ở Khu phố 4, thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, người dân còn gọi là làng Quán Hương.
Hiện nay, ở làng hương – Quán Hương thị trấn Hà Lam huyện Thăng Bình có hơn 350 hộ đang làm hương, giải quyết việc làm cho 450 lao động nông nghiệp khi mùa vụ nông nhàn. Có 5 cơ sở đóng tại làng nghề vừa xay bột nguyên liệu, vừa kinh doanh các loại bột nguyên liệu khác do chưa sản xuất được để cung cấp cho nhu cầu sản xuất hương của các hộ. Với sản lượng cung cấp hàng tháng là 480 tấn gồm: bột quế, bột keo, bột cưa và các loại bột khác. Ngoài ra, còn cung cấp các nguyên liệu khác như: cây chu và nhãn mác cho các hộ trong làng nghề. Mỗi năm, thị trường tiêu thụ trên 50.000 muôn hương (01 muôn tương đương với 10.000 cây), doanh thu trên 7 tỷ đồng.  Theo anh Lê Văn Anh ở tổ 4 khu phố 4 với 23 năm theo nghề làm hương tâm sự; “Nghề làm hương không vất vả như nghề nông nhưng có thu nhập cao và có điều kiện giải quyết việc làm trong gia đình. Người lớn thì đảm nhận khâu nhồi bột, nhúng hương, trẻ em và người già thì xe hương và gói hương”. Nhiều hộ có thu nhập cao ở làng hương với mức trên 50 triệu đồng/năm nhờ sản xuất các loại hương trầm, hương quế, hương bổi. Một ngày có hộ sản xuất 2 muôn hương, đó là ngày thường, còn dịp tết, ngày rằm hàng tháng thì sản lượng tăng gấp 3 lần. Thị trường tiêu thụ chủ yếu ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng
Nam và các tỉnh Tây Nguyên, Đồng Nai, một số xuất khẩu sang Lào và Campuchia.
Với hiệu quả kinh tế từ nghề làm hương mang lại, UBND tỉnh Quảng Nam đã phê duyệt dự án khôi phục  và phát triển làng nghề truyền thống làm hương thị trấn Hà Lam với tổng kinh phí gần 6 tỷ đồng, với quy mô nội dung đầu tư gồm: Khu trưng bày sản phẩm, xây dựng cơ sở sản xuất tập trung, khu nhà xưởng, công trình phục vụ sản xuất, trạm biến áp điện 100KVA, đường dây hạ thế và chiếu sáng, hệ thống cấp thoát nước và hệ thống xử lý môi trường, thiết bị chẻ tre làm chu hương, máy xay bột, bàn xe, giàn phơi, thiết bị sấy, đào tạo chuyển giao công nghệ, mua xe vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm. Trong tổng mức đầu tư do ngân sách tỉnh, huyện hỗ trợ và vay Ngân hàng, nhân dân làng nghề phải đóng góp trên 2,3 tỷ đồng. Huyện Thăng Bình đang xúc tiến triển khai dự án này. Bước đầu đã xây dựng cổng làng, làm đường bê tông dài 1100 mét, trồng cây cau hai bên đường đã tạo ra cảnh quan môi trường xanh - sạch - đẹp. Đặc biệt, đã chuyển giao công nghệ sản xuất hương vòng Hà Tây vào làng nghề. Cây hương vòng có nhiều ưu điểm như kích thước gọn, dễ vận chuyển và bảo quản, thời gian cháy lâu, không phụ thuộc vào nguồn chu như sản xuất hương cây, do đó, làng nghề có thể tăng tính chủ động trong sản xuất ngay từ nguyên liệu đầu vào. Qua chuyển giao công nghệ, bà con đã sản xuất hai loại hương vòng 24 giờ và 48 giờ tham gia hội chợ làng nghề Xưa và Nay năm 2006 và hội chợ Xuân Đinh Hợi của tỉnh được đánh giá cao và đã có nhiều hộ trong tỉnh đăng ký bán sản phẩm hương của làng nghề. Thực tế cho thấy, sản xuất hương vòng đã đem lại lợi nhuận cao nhưng phải có sự đầu tư mua sắm trang thiết bị và có chính sách ưu đãi đối với làng nghề.
Làng nghề hương truyền thống Quán Hương được khôi phục và phát triển sẽ tạo ra một diện mạo mới về làng nghề truyền thống nông thôn với phương thức sản xuất mang tính tập trung, đảm bảo môi trường và đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, góp phần tăng trưởng nền kinh tế địa phương trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn theo nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện Thăng Bình đã đề ra. Nghề hương cũng chính là nét văn hóa đặc trưng của quê hương Thăng Bình, trong tương lai không xa sẽ thu hút khách du lịch thập phương đến với làng nghề.
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Thăng Bình
THEO DÒNG LỊCH SỬ
Những ngày đáng nhớ trong tháng 9

- 02/9/1945: Quốc khánh Nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- 02/9/1969: Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần.
- 12/9/1930: Xô Viết Nghệ Tĩnh.
- 20/9/1977: Việt 
Nam trở thành thành viên Liên Hiệp Quốc.
- 23/9/1977: Nam Bộ kháng chiến.
- 27/9/1940: Khởi nghĩa Bắc Sơn.
- 30/9/1988: Kỷ niệm ngày mất của đồng chí Trường Chinh. 

02/9/1945: Quốc khánh Nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt 
Nam
Cách mạng tháng tám thành công, Trung ương Đảng phái đồng chí Lê Đức Thọ lên chiến khu đón chủ tịch Hồ Chí Minh về Hà Nội và nghỉ tại thôn Phú Gia, xã Phú Thượng, Từ Liêm. Sau đó Người về ở nhà số 48 Hàng Ngang, Hà Nội.  Tại cuộc họp của chính phủ lâm thời, theo đề nghị của Người một chính phủ thống nhất toàn quốc thể hiện ở chính sách đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và những nhân sĩ tiến bộ được thành lập.
Buổi trưa ngày 02/9/1945, tại quảng trường Ba Đình- Hà Nội, trong cuộc mítting của trên 50 vạn nhân dân Hà Nội và vùng lân cận chào mừng chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản tuyên ngôn độc lập tuyên bố với nhân dân Việt Nam và thế giới rằng: Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra đời. Bản tuyên ngôn độc lập khẳng định:
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng. Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập!… Nước ViệtNam có quyền đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Tuyên ngôn độc lập do chủ tịch Hồ Chí Minh viết là sự phát triển của bản yêu cầu mà Người gửi cho hội nghị hòa bình ở Vec-xây năm 1919, là sự phát triển của chương trình Việt Minh mà người soạn thảo năm 1941. Nó là kết tinh những quyền lợi cơ bản và những nguyện vọng tha thiết nhất của dân tộc Việt 
Nam và nói lên tâm hồn trong sáng, khí phách hào hùng của nhân dân ta.
“Bản tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trên những hải đảo xa xôi, trên những máy chém, trên chiến trường. Bản tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu hy vọng gắng sức và tin tưởng của hơn 20 triệu nhân dân Việt 
Nam” (Trần Dân Tiên - những mẩu chuyện về đời hoạt động của chủ tịch Hồ Chí Minh).
Ngày độc lập 02/9/1945 là ngày hội lớn của dân tộc Việt 
Nam, chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở nước ta, đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên nhân dân ta làm chủ vận mệnh của mình để thực hiện độc lập, tự do và hạnh phúc.
Từ đó, ngày 02/9 trở thành ngày quốc khánh của nước Việt 
Nam dân chủ cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

23/9/1945: Ngày 
Nam Bộ Kháng chiến
Chỉ 03 tuần lễ sau khi nước Việt 
Nam dân chủ cộng hoà ra đời, ngày 23/9/1945 thực dân Pháp núp dưới bóng quân đội Anh tước vũ khí của quân đội Nhật ở Nam Bộ, âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta lần nữa. 6.000 quân Pháp dựa vào hơn 1 vạn quân Anh đã trắng trợn gây hấn ở thành phố Sài Gòn. Chúng mưu toan chiếm Nam Bộ làm bàn đạp chiếm cả Việt Nam và Đông Dương.
7h sáng ngày 23/9, Xứ uỷ và Uỷ ban hành chính Nam Bộ (sau đổi tên thành Uỷ ban kháng chiến) họp khẩn cấp tại phố Cây Mai (Chợ Lớn) có đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Trung ương Đảng và tổng bộ Việt Minh tham dự. Hội nghị quyết định phát động nhân dân kiên quyết kháng chiến chống xâm lược. Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập, ra lệnh tổng bãi công, bãi thị, bất hợp tác với địch, phong toả địch. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Nam Bộ sục sôi căm thù, nhất tề đứng dậy, xông ra mặt trận quyết chiến với quân xâm lược, mở ra một trang sử oanh liệt mới: Nam Bộ Kháng Chiến.
Chiều 23/9, cả Sài Gòn đình công, không hợp tác với Pháp. Các công sở xí nghiệp, hãng buôn đóng cửa, chợ không họp, xe ngừng chạy. Các ụ chiến đấu mọc lên khắp nơi. Ngay những ngày đầu, quân Sài Gòn đã tiêu hao sinh lực địch và phá huỷ một phần cơ sở vật chất của chúng. Tiếng súng kháng chiến ở Sài Gòn chấn động cả nước. Nhiều tỉnh Nam Bộ đưa lực lượng đoàn viên, thanh niên về góp sức với Sài Gòn chống quân xâm lược. 
Ban thường vụ Trung ương Đảng họp chủ trương đánh mạnh quân Pháp ở Nam bộ, quyết tâm giành thắng lợi ở chiến trường để tạo điều kiện cho việc đấu tranh với quân Tưởng ở ngoài Bắc. Ngày 27/9/1945, chủ tich Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào miền Nam khẳng định quyết tâm kháng chiến của Đảng, chính phủ và nhân dân ta, chỉ rõ mục tiêu chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc. Người nêu cao lẽ sống “thà chết tự do hơn sống nô lệ” của nhân dân ta. Đáp lời kêu gọi của Người, xứng đáng với lòng tin cậy và sự cổ vũ của nhân dân cả nước, nhân dân Nam Bộ vùng dậy dũng cảm đánh trả kẻ địch có trang bị hiện đại, làm thất bại âm mưu của địch, tạo điều kiện để ta củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ mới, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc.
Tháng 02/1946, thay mặt chính phủ và đồng bào cả nước, chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Nam Bộ danh hiệu vẻ vang: “Thành đồng Tổ quốc”.
Nguồn: lichsuvietnam.vn
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH MỚI
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn tháng 9/2018, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên, thanh niên, các tổ chức Đoàn thông tin về Thông tư 03/2018/TT-BLĐTBXH ngày 15/6/2018 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành giáo dục nghề nghiệp có hiệu lực từ tháng 8/2018.
Theo đó, viên chức chuyên ngành giáo dục nghề nghiệp phải đảm bảo 04 tiêu chuẩn chung sau:
- Tâm huyết với nghề, giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín, lương tâm nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hòa nhã với người học, đồng nghiệp...
- Tận tụy với công việc, thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của cơ sở giáo dục nghề nghiệp của ngành.
- Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí.
- Có phẩm chất, đạo đức tốt; Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn và nghiệp vụ; Có đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; Có lý lịch rõ ràng.
Thông tư này có hiệu lực từ ngày 01/08/2018.
Nguồn: luatvietnam.vn
SỔ TAY NGHIỆP VỤ
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn tháng 9/2018, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên, thanh niên, các tổ chức Đoàn hướng dẫn đoàn viên tham gia hoạt động Đoàn tại nơi cư trú giai đoạn 2018-2022:
I. NƠI CƯ TRÚ VÀ HOẠT ĐỘNG ĐOÀN NƠI CƯ TRÚ
1. Nơi cư trú: được nêu tại Hướng dẫn này là nơi đoàn viên đang thường trú, tạm trú hoặc địa bàn dân cư thuận lợi để đoàn viên chủ động đăng ký tham gia hoạt động.
2. Hoạt động Đoàn nơi cư trú: Là hoạt động của đoàn viên tham gia với cấp bộ Đoàn ở địa bàn dân cư (kể cả hoạt động ở cấp cơ sở và chi đoàn).
II. ĐỐI TƯỢNG THAM GIA HOẠT ĐỘNG ĐOÀN TẠI NƠI CƯ TRÚ
- Đoàn viên là học sinh đang học tập tại các trường phổ thông (gồm Trung học phổ thông, Trung tâm giáo dục thường xuyên).
- Đoàn viên là sinh viên các trường Trung cấp, Cao đẳng, Đại học.
- Đoàn viên là cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp.
- Đoàn viên là công nhân, lao động trẻ làm việc trong các doanh nghiệp.
- Đoàn viên trong lực lượng vũ trang nhân dân (trừ đoàn viên trong các đơn vị chiến đấu của Công an nhân dân và Quân đội nhân dân).
III. QUYỀN CỦA ĐOÀN VIÊN THAM GIA HOẠT ĐỘNG ĐOÀN TẠI NƠI CƯ TRÚ
Việc tham gia hoạt động Đoàn tại nơi cư trú thể hiện ý thức trách nhiệm, tính tiên phong, gương mẫu của người Đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; tăng cường sự gắn bó giữa đoàn viên với nơi cư trú, giúp đoàn viên nắm được tình hình của địa phương cũng như có điều kiện tham gia đóng góp trực tiếp vào sự phát triển của nơi đoàn viên cư trú. Vì vậy, đoàn viên cần có tính tự giác trong việc thực hiện quyền tham gia hoạt động Đoàn nơi cư trú. Đoàn viên tham gia hoạt động Đoàn tại nơi cư trú có các quyền cụ thể sau:
- Được quyền đề nghị tổ chức Đoàn nơi cư trú tạo điều kiện tham gia các hoạt động do Đoàn - Hội - Đội tổ chức để rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành.
- Được quyền lực chọn địa bàn để tham gia hoạt động Đoàn nơi cư trú.
- Được tham dự và đóng góp ý kiến tại các buổi sinh hoạt định kỳ của Chi đoàn (nếu được Ban Chấp hành Chi đoàn mời dự) nhưng không được tham gia biểu quyết các vấn đề của Chi đoàn.
- Được quyền đề nghị tổ chức Đoàn nơi đăng ký hoạt động nhận xét, đánh giá, xác nhận về quá trình tham gia hoạt động Đoàn tại nơi cư trú; được khen thưởng, biểu dương khi có thành tích xuất sắc.
IV. ĐỊNH HƯỚNG MỘT SỐ NỘI DUNG THAM GIA HOẠT ĐỘNG  ĐOÀN TẠI NƠI CƯ TRÚ
- Hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao.
- Hoạt động tình nguyện tham gia phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo an sinh xã hội.
- Hoạt động xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.
- Hoạt động bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của thanh thiếu nhi; các hoạt động chăm sóc giáo dục thiếu niên, nhi đồng.
- Hoạt động góp ý các chủ trương, chính sách của địa phương về thanh thiếu nhi; hoạt động xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư.
- Sinh hoạt Chi đoàn định kỳ.
V. QUY TRÌNH, THỦ TỤC GIỚI THIỆU, TIẾP NHẬN VÀ TỔ CHỨC CHO ĐOÀN VIÊN THAM GIA HOẠT ĐỘNG ĐOÀN TẠI NƠI CƯ TRÚ
1. Đối với đoàn viên tham gia hoạt động Đoàn tại nơi cư trú:
Bước 1: Đoàn viên chủ động đăng ký địa bàn, thời điểm tham gia sinh hoạt Đoàn nơi cư trú với chi đoàn, Đoàn cơ sở nơi trực tiếp quản lý.
Bước 2: Nhận giấy giới thiệu từ Đoàn cơ sở trực tiếp quản lý và nộp giấy giới thiệu cho Đoàn xã, phường, thị trấn nơi đăng ký tham gia hoạt động Đoàn nơi cư trú (Mẫu 1).
Bước 3: Thực hiện các nội dung đã đăng ký.
2. Đối với Chi đoàn, Đoàn cơ sở nơi trực tiếp quản lý đoàn viên (thực hiện việc giới thiệu):
Bước 1: Chi đoàn tổng hợp thông tin đoàn viên đăng ký địa bàn, thời điểm tham gia hoạt động Đoàn nơi cư trú và báo cáo với Đoàn cơ sở để cấp giấy giới thiệu cho đoàn viên.
Bước 2: Đoàn cơ sở cấp giấy giới thiệu cho đoàn viên. Nếu là Chi đoàn cơ sở thì trực tiếp thực hiện việc cấp giấy giới thiệu.
Bước 3: Đoàn cơ sở, Chi đoàn lập danh sách đoàn viên hoạt động nơi cư trú để theo dõi, quản lý (Mẫu 3).
3. Đối với Đoàn xã, phường, thị trấn và chi đoàn nơi tiếp nhận đoàn viên tham gia hoạt động nơi cư trú:
Bước 1: Đoàn xã, phường, thị trấn tiếp nhận giấy giới thiệu về tham gia hoạt động Đoàn nơi cư trú do đoàn viên chuyển trực tiếp (hoặc danh sách được chuyển giao từ cấp bộ Đoàn trực tiếp quản lý đoàn viên Mẫu 2).
Bước 2: Bàn giao danh sách đoàn viên cho các Chi đoàn trực thuộc và hướng dẫn cho đoàn viên tham gia các hoạt động tại Chi đoàn.
Bước 3: Chi đoàn tiếp nhận đoàn viên, tổ chức các hoạt động để đoàn viên tham gia; lập danh sách quản lý và theo dõi kết quả hoạt động của đoàn viên hoạt động nơi cư trú (Mẫu 4).
VI. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ ĐOÀN VIÊN THAM GIA HOẠT ĐỘNG ĐOÀN TẠI NƠI CƯ TRÚ
Chi đoàn và Đoàn cơ sở nơi cư trú nhận xét, đánh giá kết quả tham gia hoạt động Đoàn nơi cư trú khi có yêu cầu của đoàn viên (Mẫu 5).
- Tiêu chí nhận xét, đánh giá:
+ Ý thức tham gia hoạt động Đoàn tại nơi cư trú.
+ Mức độ tham gia hoạt động của Đoàn tại nơi cư trú.
+ Kết quả tham gia hoạt động của Đoàn tại nơi cư trú.
- Căn cứ vào các tiêu chí trên khi được yêu cầu, Chi đoàn và Đoàn cơ sở đánh gía đoàn viên sinh hoạt nơi cư trú theo 03 mức: tham gia hoạt động tốt, có tham gia hoạt động, có đăng ký nhưng không tham gia hoạt động. Kêt quả tham gia hoat động Đoàn nơi cư trú được bổ sung, ghi nhận vào kết quả đánh giá xếp loại đoàn viên hàng năm nơi đoàn viên đang sinh hoạt.
- Kết quả, thành tích của đoàn viên tham gia hoạt động Đoàn nơi cư trú, đóng góp cho tổ chức Đoàn tại nơi cư trú sẽ là cơ sở để ưu tiên trong xét các danh hiệu, các hình thức khen thưởng.
- Bản nhận xét, đánh giá trước khi chuyển cho đoàn viên phải có xác nhận của Đoàn cơ sở xã, phường, thị trấn nơi đoàn viên đăng ký hoạt động nơi cư trú.

GƯƠNG THANH NIÊN LÀM KINH TẾ GIỎI
Từ bỏ học bổng du học để phát triển du lịch homestay

Nguyễn Lê Khang Cường từng có học bổng du học tới Đài Loan, song nặng lòng với dự án phát triển du lịch quê mình, anh đã từ bỏ để đi theo đam mê.
Giọng nói chân chất, nụ cười đôn hậu, lối sống đơn giản nhưng tử tế là những gì mọi người có thể thấy được ở Nguyễn Lê Khang Cường, 22 tuổi.
Bắt đầu khởi nghiệp từ khi còn là sinh viên năm 3, sau hai năm cùng với bao nhiêu thử thách, Khang Cường đã bước đầu thành công với mô hình homestay tại quê hương anh - Phú Yên cùng với mô hình dịch vụ du lịch trải nghiệm các danh lam thắng cảnh và làng nghề nơi đây.
Năm 2015, khi chỉ là một sinh viên năm thứ 3 Trường ĐH Ngoại thương (cơ sở tại TP.HCM), Khang Cường đã rất nhiều lần ấp ủ ước mơ làm được điều gì đó cho vùng đất mình sinh ra. Niềm yêu thương mảnh đất Phú Yên da diết cộng với lòng say mê du lịch trải nghiệm đã cho cường ý tưởng đem du lịch quê nhà đến cho nhiều người biết đến hơn. Sau này, nhận được một học bổng tới Đài Loan học, Khang Cường cũng từ chối, dù đó là ước mơ của nhiều người.
Thời điểm Khang Cường bắt đầu phát triển du lịch ở Phú Yên, mảnh đất này chỉ là một vùng đất hoang sơ. Bắt tay vào thiết kế và tìm kiếm các danh lam thắng cảnh chất lượng nhưng tiết kiệm chi phí cho khách hàng, Khang Cường liên tục phải di chuyển từ hai địa điểm TP.HCM - Phú Yên vào các cuối tuần để vừa thu xếp việc học, vừa có thể về quê nhà để ghé thăm các làng chài, các quán ăn chất lượng để nói chuyện, làm việc.
Một năm sau khi ấp ủ ý tưởng, Khang Cường cùng với sự ủng hộ của nhiều bạn bè đã lập nên hệ thống homestay tại Phú Yên. Khang Cường bảo mình sống tử tế nên luôn giao thoa với những người cùng tần số, trên con đường lập nghiệp của mình, Khang Cường nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ về tinh thần cùng rất nhiều bạn bè đồng hành cùng anh, cùng với nhà đầu tư thiên thần.
Tiền không phải là tất cả
“Nói thì dễ, làm mới khó, bởi lẽ sự chỉn chu đến từng chi tiết đôi khi là thứ thử thách lòng kiên nhẫn của tôi. Nếu không tìm được địa điểm ăn uống chất lượng, đúng cách nấu của người bản địa hay không tìm được danh thắng mới mẻ, thể hiện đúng mảnh đất Phú Yên thì tôi nhất định không nhận khách đi. Phải đến khi nào tôi cảm thấy hài lòng với những gì mình làm ra, tôi mới dám truyền tải nó cho mọi người”, chàng trai sinh ra và lớn lên ở Phú Yên bày tỏ.
Nguồn: thanhgiong.vn
CÂU CHUYỆN ĐẸP
Bà Trần Thị Chích - Tấm gương sáng trong phong trào
“Thi đua yêu nước” của huyện Ninh Sơn, Ninh Thuận
Ở huyện Ninh Sơn, nhiều người đã quen thuộc với hình ảnh bà Trần Thị Chích ngày ngày đạp xe rong ruổi trên mọi con đường góc phố để nhặt ve chai, phế liệu và các phụ phẩm khác gom góp bán lấy tiền nuôi heo đất xây dựng Quỹ khuyến học giúp đỡ học sinh nghèo và hàng trăm người có hoàn cảnh khó khăn ở địa phương. Bà Chích còn được mọi người gọi với cái tên trìu mến: “Bà Chích ve chai”. Trong mục hướng tới kỷ niệm 70 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Thi đua ái quốc hôm nay, mời quý vị và các bạn gặp gỡ Bà Trần Thị Chích – Tấm gương sáng trong phong trào “Thi đua yêu nước” của huyện Ninh Sơn.
Sinh ra ở vùng đất có truyền thống hiếu học tỉnh
Nam Định và gắn bó với vùng đất huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận từ năm 1977. Năm 1999, bà về nghỉ hưu khi là Chủ tịch UBMTTQVN huyện Ninh Sơn. Thấy địa phương nơi mình sinh sống còn nhiều hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có điều kiện cho con em đến trường, bà Chích đã xây dựng quỹ khuyến học bằng cách đi lượm ve chai, phế liệu, lấy tiền giúp cho học sinh nghèo hiếu học được đến trường. Bà Chích suy nghĩ, đây cũng là cách để bà học tập và làm theo Bác bằng những việc làm cụ thể, thiết thực.
Chiếc xe đạp cũ kỹ, nón lá và đôi dép là những hành trang gắn bó với bà Chích trên từng con đường, ngõ hẻm. Hàng ngày, từ 5 giờ sáng, bà Chích bắt đầu công việc lượm ve chai đến 9 giờ mới về nhà. Bình quân mỗi ngày bà thu được hơn 20 ngàn đồng.   
Thời gian đầu khi bà Chích mới làm công việc này, gia đình và làng xóm không đồng tình vì lo cho sức khỏe của bà, cuộc sống của bà Chích lại không khó khăn bởi bà có tiền lương hưu hàng tháng. Thế nhưng, bà vẫn làm công việc nhặt ve chai, vừa làm sạch con đường, ngõ hẻm, bảo vệ môi trường, vừa tích góp tiền để động viên, khuyến khích con cháu ăn học. Mưa dầm thấm lâu, thấy bà Chích làm việc có ý nghĩa nên mọi người dần dần ủng hộ.
   Từ ngày nhặt ve chai đến nay, mỗi tháng, bà tích góp và bán được từ 500 - 700 ngàn đồng. Bán được đồng nào bà bỏ tiền vào heo đất. Có tháng bán không được nhiều, bà lấy lương hưu bỏ vào cho đủ. Với các cháu nhỏ, mỗi lần đạt điểm 10, bà thưởng 1 món quà nhỏ để động viên. Cuối năm học, cháu nào đạt danh hiệu học sinh giỏi, bà trích thưởng 100 ngàn đồng. Những cháu đạt giải học sinh giỏi huyện, tỉnh…, bà thưởng cao hơn. Những cháu gia đình khó khăn thì bà giúp đỡ thường xuyên hơn để động viên các cháu tiếp tục theo đuổi việc học. Nhờ Quỹ khuyến học của bà đã động viên các cháu có ý thức thi đua học tập và học giỏi.
Phát huy kinh nghiệm khi làm công tác mặt trận, năng động, trách nhiệm, nhiệt tình với công việc, bà Trần Thị Chích dành nhiều thời gian và công sức để vừa đóng góp, vừa tích cực vận động các nhà hảo tâm xây dựng các quỹ tại địa phương như: “Quỹ khuyến học khuyến tài”;  “Đền ơn đáp nghĩa”;  “vì người nghèo”;  “Quốc phòng – an ninh”;  “Quỹ người cao tuổi”;  “xây dựng khu phố văn hóa”… Từ các nguồn quỹ này đã giúp cho nhiều gia đình có hoàn cảnh khó khăn có điều kiện phát triển kinh tế gia đình và ổn định cuộc sống.
Với những đóng góp của mình, bà Trần Thị Chích đã được các cấp, ngành trong tỉnh tặng nhiều bằng khen, giấy khen về gương điển hình tiêu biểu 5 năm liền thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; gương tiêu biểu trong 5 năm thực hiện Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư 2011 – 2015. Đặc biệt, bà đã được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba. Liên tiếp trong hai năm 2016 và 2017, bà Trần Thị Chích vinh dự được Thủ tướng Chính phủ và Ban Tuyên giáo Trung ương tặng Bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc, tiêu biểu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Bà cũng vinh dự được Hội khuyến học Việt
Nam tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp khuyến học”...
Nhặt ve chai là nghề kén người. Không nhẫn nại, tỉ mỉ, sợ vất vả… thì không thể làm được. Với bà Trần Thị Chích, không có công việc gì là thấp hèn, ngược lại đây là việc làm hoàn toàn chính đáng, lương thiện, đem lại nhiều niềm vui cho bà vì đã góp phần động viên, hỗ trợ con cháu học tập; giúp đỡ học sinh nghèo và các gia đình khó khăn trong cuộc sống.
Nguồn:ninhthuantv.vn

BÀI HÁT THANH NIÊN

Người Việt Nam

                                                   Sáng tác: Trần Vũ Anh Bình

Yêu sao người Việt Nam, đẹp màu da pha mưa nắng 
Lấp lánh trong màu mắt cháu con nòi giống máu tiên rồng 
Thời cha ông sức gai chông, ngàn năm lưu dấu non sông 
Đẹp mãi nhé những tâm hồn Việt Nam dấu yêu 
Qua bao cuộc đời đổ thay, người Việt Nam luôn kiên dũng. 
Tiến bước lên cùng với trái tim nồng ấm giữa bao đời. 
Cùng cha ông sức phi thường, 
nhịp chân ta bước lên đường cùng đất nước tiến nơi xa trường 
Cha ông tự bao đời, vang trong hồn con cháu. 
Nghe bao lời thiết tha, 
như giọng hát ru dìu đưa con đi ngàn hướng 
Người Việt Nam dòng máu rồng tiên 
Người Việt Nam nung nấu tim mình, 
ngọn lửa thiêng đốt cháy tâm hồn tình yêu thương đất nước. 
Người Việt Nam rợp bước trời đông 
Người Việt Nam chung chí một lòng cùng đứng lên tiếp bước oai hùng, 
người Việt Nam tiến lên. 
Việt Nam tiến lên, Việt Nam tiến lên cho quê hương ngời sáng, 
trời đông thêm rạng ngời.


 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Thăm dò ý kiến

Website của tuổi trẻ Thăng Bình thế nào?

standee trai
standee ben trai